Vị Trí, Sứ Mạng Của Trường Đại Học Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Thanh Hóa


viên dưới sự hướng dẫn của giáo viên TDTT hay hướng dẫn viên TDTT. Ngoài ra còn các hoạt động thể thao quần chúng ngoài giờ học bao gồm: Luyện tập trong các câu lạc bộ, các đội tiêu biểu từng môn thể thao, các bài tập thể dục vệ sinh chống mệt mỏi hàng ngày, cũng như giờ tự luyện tập của sinh viên, phong trào tự tập luyện rèn luyện thể lực. Hoạt động ngoại khoá với chức năng là động viên lôi kéo nhiều người tham gia tập luyện các môn thể thao yêu thích, rèn luyện thể lực tham gia cổ vũ phong trào rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp [20], [50], [59], [82], [84], [85], [86].

Chương trình GDTC nội khóa, trên cơ sở chương trình khung do Bộ GD và ĐT qui định (phần bắt buộc, phần tự chọn, phân phối số đơn vị học trình và học phần, thời lượng), các nhà trường được phép chủ động lựa chọn nội dung giảng dạy phù hợp với đối tượng và điều kiện cụ thể về cơ sở vật chất, năng lực đào tạo của đội ngũ giảng viên. Sinh viên hoàn thành chương trình đào tạo được cấp chứng chỉ môn học, chứng chỉ là điều kiện tiên quyết để sinh viên được xét công nhận tốt nghiệp. Để phát triển phong trào luyện tập TDTT của sinh viên, việc xây dựng kế hoạch tổ chức và động viên sinh viên tham gia tập luyện. Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện các hoạt động TDTT do Bộ GD và ĐT, hội thể thao sinh viên các cấp cũng là một trong những hình thức hoạt động ngoại khóa sôi nổi, có sức lôi cuốn mạnh mẽ sinh viên tham gia tạo điều kiện để phát triển các loại hình câu lạc bộ TDTT, coi đó như một mặt của giáo dục toàn diện, giúp sinh viên sử dụng thời gian nhàn rỗi một cách có hiệu quả, tích cực.

Thuật ngữ “Chương trình giáo dục” hoặc “chương trình đào tạo” về giáo dục của tiếng Việt có hai nghĩa khác nhau, tương ứng với hai từ trong bảng từ vựng về giáo dục của tiếng Anh. Nghĩa thông thường được sử dụng là một văn bản quy định mục đích và các mục tiêu cụ thể đặt ra đối với một


ngành đào tạo, các khối kiến thức và các môn học, tổng thời lượng cùng thời lượng dành cho mỗi môn mà nhà trường tổ chức giảng dạy để trang bị các kiến thức, kỹ năng, thái độ cần thiết cho sinh viên theo học một ngành nào đó. Nghĩa này tương đương với nội dung của thuật ngữ tiếng Anh “Curriculum”. Nghĩa thứ hai tương đương với nội dung của thuật ngữ “Program” trong tiếng Anh. Đó là “nội dung, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và các hoạt động học thuật của một đơn vị đào tạo đang triển khai để đào tạo một ngành học trong một bậc học nhất định, thường được ký hiệu bằng mã ngành” [29], [38], [48], [50], [51].

Chương trình giáo dục xem xét ở đây được hiểu theo nghĩa thứ nhất. Trong lịch sử phát triển của giáo dục, có ba cách tiếp cận phổ biến về chương trình giáo dục đó là cách tiếp cận nội dung, cách tiếp cận mục tiêu và cách tiếp cận phát triển. Với quan niệm giáo dục là quá trình truyền thụ nội dung kiến thức, cách tiếp cận nội dung đưa ra định nghĩa: “Chương trình giáo dục là bản phác thảo về nội dung giáo dục qua đó người dạy biết mình cần phải dạy những gì và người học biết mình cần phải học những gì”. Theo cách tiếp cận này thì Chương trình = Nội dung. Cách tiếp cận mục tiêu, quan niệm giáo dục là công cụ để đào tạo nên các sản phẩm với các tiêu chuẩn đã được xác định sẵn. Vì vậy, chương trình giáo dục là một kế hoạch giáo dục phản ánh các mục tiêu giáo dục mà nhà trường theo đuổi, nó cho biết nội dung cũng như phương pháp dạy và học cần thiết để đạt được mục tiêu đề ra [52].

Theo cách tiếp cận này: Chương trình = Nội dung + Mục tiêu + Phương pháp. Theo quan niệm: chương trình giáo dục là quá trình, còn giáo dục là sự phát triển, cách tiếp cận phát triển cho rằng: Chương trình giáo dục là một bản thiết kế tổng thể cho một hoạt động giáo dục (có thể kéo dài một vài giờ, một ngày, một tuần hoặc vài năm). Bản thiết kế tổng thể đó cho biết toàn bộ nội


dung giáo dục, chỉ rõ những gì có thể trông đợi ở người học sau khi học, nó phác họa ra quy trình cần thiết để thực hiện nội dung giáo dục, nó cũng cho biết các phương pháp giáo dục và các cách thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập và tất cả những cái đó được sắp xếp theo một thời gian biểu chặt chẽ. Như vậy, tùy theo các quan niệm khác nhau của các cách tiếp cận để có khái niệm về chương trình giáo dục khác nhau [17], [19], [95], [102].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 312 trang tài liệu này.

Có thể khái quát các khái niệm về chương trình giáo dục nêu trên như sau: “Chương trình giáo dục là một tập hợp của các hoạt động gắn kết với nhau nhằm đạt đến mục tiêu giáo dục của nhà trường”.

Định nghĩa về chương trình giáo dục theo Luật Giáo dục năm 2005 như sau: “Chương trình giáo dục thể hiện mục tiêu giáo dục; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp, mỗi cấp học hoặc trình độ đào tạo” (Điều 6) [53].

Nghiên cứu nội dung môn giáo dục thể chất cho sinh viên trường Đại học Văn hoá, Thể thao và Du lịch Thanh Hoá - 5

Điều 41 Luật Giáo dục năm 2005 cũng quy định “Chương trình giáo dục đại học thể hiện mục tiêu giáo dục đại học; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục đại học, phương pháp và hình thức đào tạo, cách thức đánh giá kết quả đào tạo đối với mỗi môn học, ngành học, trình độ đào tạo của giáo dục đại học; bảo đảm yêu cầu liên thông với các chương trình giáo dục khác”. Quan điểm về chương trình giáo dục đại học theo Luật Giáo dục năm 2005 còn được thể hiện rất rõ trong các quy chế của các loại hình đào tạo khác nhau [53].

Như vậy chương trình đào tạo hay chương trình giảng dạy không chỉ phản ánh nội dung đào tạo mà là một văn bản hay bản thiết kế thể hiện tổng thể các thành phần của quá trình đào tạo, điều kiện, cách thức, quy trình tổ chức, đánh giá các hoạt động đào tạo để đạt được mục tiêu đào tạo.


1.3. Vị trí, sứ mạng, đặc thù nghề nghiệp của trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa

1.3.1. Vị trí, sứ mạng của trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa

Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa có khả năng đào tạo và cung cấp cán bộ thuộc lĩnh vực Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho tỉnh Thanh Hóa và các tỉnh Bắc Trung Bộ Nam Sông Hồng, hiện nay còn mở liên thông, liên kết trên toàn quốc; tạo cơ hội và môi trường học tập thuận lợi cho mọi đối tượng, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Là một trường công lập chuyên về Văn hóa, Thể thao và Du lịch, duy nhất của Việt Nam, trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa có chức năng đào tạo ra những cán bộ có kiến thức về lĩnh văn hóa, Thể thao và Du lịch [31].

Theo xu hướng chung của ngành Giáo dục và Đào tạo trong nhiều năm qua nhà trường đã tiến hành đổi mới hình thức tổ chức, quản lý, phương pháp dạy và học các môn học nói chung và môn học GDTC nói riêng và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, căn cứ vào điều kiện thực tiễn của nhà trường về yếu tố cơ sở vật chất, nguồn nhân lực và một số điều kiện khách quan khác, hiệu quả của các giờ học đối với môn học GDTC cũng như phát triển thể lực chung cho sinh viên, vẫn còn nhiều hạn chế về việc tiếp thu kỹ thuật cơ bản.

Để nâng cao được trình độ thể lực chung, góp phần nâng cao hiệu quả công tác rèn luyện thể chất nói chung và hiệu quả học tập môn GDTC nói riêng, đáp ứng mục tiêu đào tạo hiện nay của nhà trường, đòi hỏi sinh viên phải hiểu biết tương đối toàn diện về mục đích tác dụng của môn GDTC. Thể lực là một điều kiện không thể thiếu đối với sức khỏe con người, đặc biệt là


học sinh, sinh viên đang trong giai đoạn phát triển về tất cả các mặt trí và lực, giải quyết được vấn đề trên thì sinh viên phải hiểu về tác dụng của thể lực của con người đối với xã hội hiện nay. Cho đến nay, trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa đã tiến hành tổ chức học tập theo nội dung và các yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhưng trong những năm gần đây việc ứng dụng nội dung tập luyện vẫn còn nhiều bất cập như: Nội dung tập luyện, giáo án, phương pháp và phương tiện tập luyện còn chưa hợp lý nên tác dụng nâng cao thể lực của sinh viên còn hạn chế.

Giảng dạy môn GDTC và tổ chức các hoạt động thể thao tại trường Đại học Văn hoá, Thể thao và Du lịch Thanh Hoá là một hoạt động sư phạm nhằm hoàn thiện và phát triển thể chất, nhân cách người sinh viên, góp phần nhằm thực hiện nhiệm vụ “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” xây dựng lớp người mới, người chủ nhân của xã hội tương lai, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Để thực hiện được mục đích trên, bộ môn GDTC của nhà trường đã áp dụng nội dung GDTC theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhưng, do nhiều nguyên nhân mà công tác GDTC cho sinh viên trường Đại học Văn hoá, Thể thao và Du lịch Thanh Hoá còn nhiều hạn chế...Nhà trường chưa có những giải pháp thích hợp để thực hiện tốt mục tiêu nâng cao thể lực của sinh viên.

1.3.2. Đặc thù nghề nghiệp của sinh viên trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa đối với môn Giáo dục thể chất.

Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa có nhiệm vụ Đào tạo đa ngành, nhiều lĩnh vực và trình độ khác nhau trong đó có trình độ Trung cấp, trình độ Cao đẳng, trình độ Đại học, đáp ứng yêu hiện nay của đất nước. Tạo cơ hội và môi trường học tập thuận lợi cho mọi đối tượng, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Là trường công lập đặc thù của ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch của Việt


Nam đào tạo các lĩnh vực Văn hóa, Thể thao và Du lịch, là Trung tâm nghiên cứu - phát triển - khoa học uy tín và tin cậy. Theo xu hướng chung của ngành giáo dục và đào tạo, trong nhiều năm qua nhà trường đã tiến hành đổi mới hình thức tổ chức, quản lý, phương pháp dạy và học các môn học nói chung và môn GDTC nói riêng và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, căn cứ vào điều kiện thực tiễn của nhà trường về nội dung môn học GDTC, yếu tố cơ sở vật chất, nguồn nhân lực tính đặc thù nghề nghiệp của sinh viên đã ảnh hưởng phần nào đến tương lai của sinh viên. Ba lĩnh vực Văn hóa, Thể thao và Du lịch có tính đặc thù riêng của nó, như lĩnh vực Nghệ thuật có các ngành đào tạo như Sư phạm Âm nhạc, Thanh nhạc, Sư phạm Mỹ thuật, Sân khấu, Hội họa, Đồ họa... Nếu các ngành đào tạo này không lựa chọn nội dung môn GDTC phù hợp thì nó sẽ ảnh hưởng đến nghề nghiệp, tương lai của các em sau này. Ví dụ nếu lựa chọn môn bóng chuyền, nội dung đẩy tạ... thì sẽ ảnh hưởng đến tay của các sinh viên khi học môn đàn, múa...Vì vậy khi lựa chọn nội dung học cho các ngành thì cần phải lựa chọn nội dung cho phù hợp với tính đặc thù của các em, để khi học môn GDTC vẫn phát huy thể lực chung cho sinh viên. Lĩnh vực Du lịch có các ngành như Văn hóa Du lịch, Quản trị khách sạn, Quản trị dịch vụ Du lịch và Lữ hành...các ngành trên lựa chọn các môn phát triển toàn diện, mang tính nâng cao năng lực nghề nghiệp cho các em. Ví dụ như khiêu vũ Thể thao, Aerobic, các môn học này tạo cho sinh viên sự tự tin, sự năng động và sáng tạo, trong quá trình đưa đoàn đi du lịch có thể tự tổ chức các buổi lễ hội, như khiêu vũ Thể thao, Aerobic… cho khách du lịch. Lĩnh vực Văn hóa có các ngành Quản lý Văn hóa, Thông tin học, Công tác xã hội… tổ chức dạy học cho các em môn học như Bóng đá, Cầu lông, Bóng rổ... các môn học này trang bị cho sinh viên các kỹ thuật, kỹ năng trọng tài, cách thức tổ chức điều hành trận đấu. Trang bị những kiến thức mang tính nghề nghiệp để sau này khi ra trường có thể tổ chức, trọng tài


các giải đấu phong trào ở các cấp, như cấp xã, huyện, cấp tỉnh, các cơ quan tổ chức cá nhân. Chính vì vậy giờ học chính khoá đối với môn GDTC cũng như phát triển thể lực chung cho sinh viên vẫn còn nhiều hạn chế, chỉ đáp ứng được việc tiếp thu kỹ thuật cơ bản. Để nâng cao được trình độ thể lực chung, góp phần nâng cao hiệu quả công tác rèn luyện thể chất nói chung và hiệu quả học tập môn GDTC nói riêng, đáp ứng mục tiêu đào tạo hiện nay của nhà trường, cần phải có nội dung môn GDTC phù hợp với từng ngành học, để không làm ảnh hưởng tới nghề nghiệp tương lai của sinh viên, qua môn GDTC là một phương tiện hỗ trợ cho quá trình đào tạo của nhà trường, mà thể lực chung của sinh viên vẫn đạt hiệu quả cao.

1.4. Cơ sở tiếp cận nội dung môn Giáo dục thể chất.

1.4.1. Một số khái niệm cơ bản về chương trình.

Khái niệm chương trình đào tạo được hiểu là văn bản chính thức quy định mục đích, mục tiêu, yêu cầu, nội dung kiến thức và kỹ năng, cấu trúc tổng thể các bộ môn, kế hoạch lên lớp và thực tập theo từng năm học, tỷ lệ giữa các bộ môn, giữa lý thuyết và thực hành, quy định phương thức, phương pháp, phương tiện, cơ sở vật chất, chứng chỉ và văn bằng tốt nghiệp của cơ sở giáo dục và đào tạo [65].

Trên cơ sở chương trình giáo dục chung (hoặc chương trình khung) được quy định bởi các cơ quan quản lý giáo dục các cơ sở giáo dục tổ chức xây dựng các chương trình chi tiết hay còn gọi là chương trình đào tạo. Chương trình đào tạo (Curriculum) là bản thiết kế chi tiết quá trình giảng dạy trong một khoá đào tạo phản ánh cụ thể mục tiêu, nội dung, cấu trúc, trình tự cách thức tổ chức thực hiện và kiểm tra đánh giá các hoạt động giảng dạy cho toàn khoá đào tạo và cho từng môn học, phần học, chương, mục và bài giảng. Chương trình đào tạo do các cơ sở đào tạo xây dựng trên cơ sở chương trình đào tạo đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt [17], [31], [34], [46].


Như vậy chương trình đào tạo hay chương trình giảng dạy không chỉ phản ánh nội dung đào tạo mà là một văn bản hay bản thiết kế thể hiện tổng thể các thành phần của quá trình đào tạo, điều kiện, cách thức, quy trình tổ chức, đánh giá các hoạt động đào tạo để đạt được mục tiêu đào tạo. Chương trình khung cho từng ngành đào tạo đối với trình độ cao đẳng, trình độ đại học bao gồm cơ cấu nội dung các môn học, thời lượng đào tạo, tỷ lệ phân bổ thời gian giữa các môn học, giữa lý thuyết và thực hành, thực tập. Căn cứ vào chương trình khung, trường cao đẳng, trường đại học xác định chương trình đào tạo của trường mình (Điều 41- Luật Giáo dục 2005) [53].

Quá trình đổi mới giáo dục và đào tạo ở nước ta đã và đang đặt ra những yêu cầu mới về nội dung và chương trình đào tạo ở các bậc học, ngành đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân. Thông báo số 242-TB/TW kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện nghị quyết TW 2 (Khóa VIII) và phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020 đã chỉ rõ: Chương trình, giáo trình chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa; nhà trường chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động nghề nghiệp. Thực trạng lạc hậu về chương trình đào tạo có nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân rất cơ bản là công tác nghiên cứu và ứng dụng trong phát triển chương trình đào tạo trong nhiều năm qua chưa được quan tâm đúng mức, việc thiết kế chương trình đào tạo ở các cấp còn nặng về kinh nghiệm, thiếu đội ngũ chuyên gia có nghề và chuyên nghiệp trong lĩnh vực quan trọng này [5].

Theo từ điển Giáo dục học - NXB Từ điển bách khoa (2001) khái niệm chương trình đào tạo được hiểu là văn bản chính thức quy định mục đích, mục tiêu, yêu cầu, nội dung kiến thức và kỹ năng, cấu trúc tổng thể các bộ môn, kế hoạch lên lớp và thực tập theo từng năm học, tỷ lệ giữa các bộ môn, giữa lý thuyết và thực hành, quy định phương thức, phương pháp, phương tiện, cơ sở vật chất, chứng chỉ và văn bằng tốt nghiệp của cơ sở giáo dục và đào tạo [90], [91], [92].

Theo Wentling (1993), chương trình đào tạo (Program of Training) là một bản thiết kế tổng thể cho một hoạt động đào tạo (khoá đào tạo) cho biết

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/05/2023