Mức Độ Bao Phủ Của Dịch Vụ Cssk Cho Phụ Nữ Có Thai Trong Sinh Và Sau Sinh Theo Sổ Sách Và Theo Dòi Liên Tiếp 12 Tháng Tại Hai Xã Nghiên Cứu Năm 2009

73


Bảng 3.28. Mức độ bao phủ của dịch vụ CSSK cho phụ nữ có thai trong sinh và sau sinh theo sổ sách và theo dòi liên tiếp 12 tháng tại hai xã nghiên cứu năm 2009

Theo dòi liên tiếp

Tỷ lệ

(30/47 phụ nữ có thai trong kỳ nghiên cứu)

Sổ sách

Sẵn có 100 100

Tiếp cận 72,4 76,04

Sử dụng 53,33 62,3

Sử dụng đủ 6,67 11,53

Sử dụng hiệu quả 0 8,2


120


100


80


60


40


20


0


100


100


76,04


72,4 62,3


53,33


6,67


11,53


Theo dòi Sổ sách


8,2

0

Đích Sẵn có Tiếp cận Sử dụng Sử dụng đủ SD hiệu quả

Biểu đồ 3.4. Biểu đồ bao phủ của dịch vụ CSSK cho phụ nữ có thai trong sinh và sau sinh theo sổ sách và theo dòi liên tiếp 12 tháng tại hai xã nghiên cứu năm 2009

Nhận xét:

Mức độ bao phủ của dịch vụ CSSK cho phụ nữ có thai trong và sau sinh theo sổ sách và theo dòi liên tiếp 12 tháng tại hai xã nghiên cứu năm 2009 cho thấy có sự chênh lệch đáng kể về các tỷ lệ sử dụng (53,33% so với 62,3%), sử dụng đủ (6,67% so với 11,53%) và sử dụng hiệu quả (0% so với 8,2%). Tồn đọng chủ yếu ở 4 công đoạn, tỷ lệ sử dụng thấp, tỷ lệ sử dụng đủ và hiệu quả rất thấp. Tồn đọng lớn nhất chính là tỷ lệ sử dụng đủ (giảm hơn 50% so với tỷ lệ sử dụng).

74


Bảng 3.29. Một số yếu tố văn hoá - xã hội và dân tộc ảnh hưởng tới CSSK của phụ nữ người Dao có thai trước sinh năm 2009


Chỉ số

Số lượng

%

Số phụ nữ có thai

47


Làm nghi lễ

24

51,06

Kiêng làm việc nặng

40

85,1

Sử dụng thuốc dân tộc

37

78,72

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

Nghiên cứu một số yếu tố liên quan đến dịch vụ y tế cho phụ nữ người Dao về khía cạnh văn hóa - xã hội tại huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Cạn - 10


Nhận xét:

Hầu hết phụ nữ người Dao khi có thai đều kiêng làm việc nặng và có sử dụng các loại thuốc dân tộc. Có một số gia đình người Dao làm các nghi lễ khi trong gia đình có phụ nữ mang thai.

Bảng 3.30. Một số yếu tố văn hoá - xã hội và dân tộc ảnh hưởng tới CSSK của phụ nữ người Dao sau sinh năm 2009


Chỉ số

Số lượng

%

Số phụ nữ sinh con

30


Làm nghi lễ khi sinh

30

100

Không cho người lạ đến nhà

30

100

Tắm thuốc dân tộc sau sinh con

30

100


Nhận xét:


Tất cả các gia đình người Dao đều làm nghi lễ theo truyền thống dân tộc khi người phụ nữ sinh con. Sau khi sinh, 100% gia đình người Dao kiêng không cho người lạ đến nhà. Tất cả phụ nữ người Dao sau khi sinh đều sử dụng thuốc tắm dân tộc.

75


Kết quả phỏng vấn sâu: Tìm hiểu về những thủ tục nghi lễ, các bài thuốc dân tộc và những kiêng khem của phụ nữ người Dao khi có thai và khi sinh đẻ, chúng tôi phỏng vấn bà Triệu Thị S (Bản Chiêng, xã Đôn Phong, huyện Bạch Thông, Bắc Kạn), bà S cho biết:

... Khi trong gia đình có người phụ nữ mang thai thì một số gia đình làm lễ cầu xin thần linh che chở cho thai nhi khoẻ mạnh, một số gia đình cầu cho sinh được con trai, cũng có nhà không làm lễ gì. Nghi lễ đơn giản, không tốn kém nhiều, thường gồm 1 con gà, 1 chai rượu, 1 đĩa gạo đặt lên bàn thờ. Khi có thai, phụ nữ thường kiêng không làm việc nặng như mang vác, khiêng nặng, không đi ra nắng, không ăn một số thức ăn như nhộng ong, kiêng hoặc hạn chế sinh hoạt vợ chồng vì sợ làm hại đến thai nhi... Sau khi đẻ, nhà nào cũng làm lễ, nếu đẻ con trai thường làm lễ sau 3 ngày, nếu đẻ con gái thường làm lễ sau 7 ngày. Lễ này được gọi là lễ nhập hộ khẩu. Sau khi đẻ, cả mẹ và con được gia đình chăm sóc nhiều hơn các thành viên khác: Được ăn nhiều thịt gà, thịt lợn, ăn canh đu đủ, ăn cơm nóng, cơm nếp... để có nhiều sữa cho con bú. Sau đẻ, người mẹ được tắm thuốc dân tộc, mỗi ngày tắm một lần, tắm thuốc giúp cho người mẹ phục hồi sức khoẻ rất nhanh, có thể đi làm nương rẫy sau 10 ngày...

Nhận xét: Kết quả phỏng vấn sâu ở trên đã phần nào mô tả được những nghi lễ mà các gia đình người Dao thường làm khi trong gia đình họ có phụ nữ mang thai và sinh đẻ. Yếu tố thần linh (tâm linh) luôn được người Dao chú trọng và ăn sâu vào tiềm thức dân tộc, với mong muốn con cái được khoẻ mạnh, người mẹ đủ sữa nuôi con. Đây là nét đẹp trong văn hoá người Dao, cần được tôn trọng và giữ gìn. Phụ nữ người Dao khi có thai phải kiêng làm việc nặng, không đi ra nắng, không ăn thức ăn dễ gây dị ứng (Nhộng ong, nhộng tằm), hạn chế sinh hoạt vợ chồng... đây là những kiêng khem có lợi cho sức khoẻ, cần được khuyến khích để cả cộng đồng và gia đình quan tâm đến sức khoẻ phụ nữ vì người phụ nữ khoẻ mạnh sẽ sinh ra những đứa trẻ khoẻ mạnh. Tắm thuốc cho phụ nữ sau sinh giúp nhanh phục hồi sức khoẻ là nét văn hoá đặc thù của người Dao, giá trị dân gian này cần được bảo tồn và phát triển.

76


Bảng 3.31. Sử dụng dịch vụ y tế trong sinh của phụ nữ người Dao tại 2 xã nghiên cứu


Biến số


n

2007

%


n

2008

%


n

2009

%

Số trẻ đẻ ra sống trong năm

43


40


30


Đẻ tại trạm y tế

11

25,58

7

17,5

5

16,67

Đẻ tại bệnh viện

20

46,51

23

57,5

19

63,33

Đẻ tại nhà có y tế giúp

8

18,6

7

17,5

4

13,33

Đẻ tại nhà không y tế giúp

4

9,3

3

7,5

2

6,67


Nhận xét:

Tỷ lệ trẻ đẻ tại bệnh viện có xu hướng tăng dần từ 46,51% năm 2007 tăng lên 57,5% năm 2008 và 63,33% trong năm 2009. Tỷ lệ trẻ được đẻ tại trạm y tế có xu hướng giảm từ 25,58% (năm 2007) xuống 17,5% (năm 2008) và 16,67% trong năm 2009. Bên cạnh đó, vẫn còn tình trạng trẻ đẻ tại nhà, đặc biệt là đẻ tại nhà không có y tế giúp. Tuy nhiên, tỷ lệ trẻ được đẻ tại nhà có xu hướng giảm dần dù có y tế hay không có y tế giúp.


Bảng 3.32. Dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho trẻ em người Dao dưới 1 tuổi tại 2 xã nghiên cứu


Biến số



n

2007

%


n

2008

%


n

2009

%

Số trẻ em dưới 1 tuổi


67


77


80


Số trẻ em dưới 1 tuổi chết/năm


2


0


0


Số ca trẻ em phải chuyển tuyến


42

28,76

48

35,03

39

37,86

Trẻ em dưới 1 tuổi tiêm chủng

nhất 1 lần

ít

65

97,01

75

97,40

78

97,5


Trẻ em dưới 1 tuổi tiêm chủng đầy đủ, đúng lịch

64 95,52 74 96,10 76 95

77


Nhận xét:

Trẻ em người Dao dưới 1 tuổi được chăm sóc khá tốt. Tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng đầy đủ đúng lịch cao, trên 95% cả 3 năm. Số ca trẻ em phải chuyển tuyến chiếm khoảng 1/3 số ca phải chuyển. Năm 2008 và 2009 không có trẻ em dưới một tuổi nào bị tử vong.

Bảng 3.33. Mức độ bao phủ của dịch vụ tiêm chủng mở rộng cho trẻ em từ năm 2007 đến năm 2009 tại 2 xã nghiên cứu

Tỷ lệ 2007 2008 2009

Sẵn có 91 92,5 94,5

Tiếp cận 72,6 79,82 76,04

Sử dụng 97,01 97,4 97,5

Sử dụng đủ 95,52 96,1 95

Sử dụng hiệu quả 0 0 0

120

100

94,5

97,5

2007

100

80

76,04

95 2008

2009

60

40


20

0

0

Đ ch Sẵn có Tiếp cận Sử dụng Sử dụng đủ SD hiệu quả


Biểu đồ 3.5. Biểu đồ bao phủ của dịch vụ tiêm chủng mở rộng cho trẻ em từ năm 2007 đến năm 2009 tại 2 xã nghiên cứu

Nhận xét:


Dịch vụ TCMR cho trẻ em tại xã đã thực hiện khá tốt. Tỷ lệ sử dụng và sử dụng đủ đạt trên 95% trong 3 năm từ 2007 đến 2009. Tuy nhiên, tỷ lệ sử dụng hiệu quả bằng 0 là do điểm dây chuyền lạnh không đạt yêu cầu và tỷ lệ này không được cải thiện trong 3 năm liên tiếp.

78


Bảng 3.34. Hiệu quả của giải pháp tăng cường trang thiết bị, thuốc và đào tạo chuyên môn tại 2 xã nghiên cứu


(Trước CT)

(Sau CT)

Trang thiết bị



Ghế khám răng

1/2

2/2

Bộ dụng cụ khám chữa răng người lớn

0/2

2/2

Bộ dụng cụ khám chữa răng trẻ em

1/2

2/2

Kính hiển vi

0/2

1/2

Đào tạo



Kỹ thuật viên nha khoa

0/2

2/2

Kỹ thuật soi tươi, nhuộm phiến đồ

0/5

5/5

Đủ thuốc điều trị phụ khoa

0/2

2/2

Kinh phí hoạt động trung bình của TYT



(Triệu đồng/năm)



UBND xã cấp

3,9

4,25

Phòng y tế huyện cấp

1,25

2,85

UBND huyện cấp

0

1,5

Trạm tự làm

0,27

1,24

Dự án, tổ chức, cá nhân tài trợ

3

12,2

Biến số Năm 2008

Năm 2009


Nhận xét:

Năm 2009, địa phương đã có những hỗ trợ tích cực cho hoạt động của trạm y tế. Trang thiết bị, thuốc và dụng cụ khám chữa bệnh răng miệng, bệnh phụ khoa đã được mua sắm mới và đầy đủ cho trạm hoạt động. Cán bộ y tế đã được cử đi đào tạo kỹ thuật khám chữa răng và phụ khoa. Bên cạnh đó, nguồn kinh phí cấp cho trạm cũng được UBND xã, UBND huyện quan tâm. Nguồn kinh phí do các dự án, tổ chức, cá nhân tài trợ được duy trì. Đặc biệt, khoản kinh phí mà trạm y tế tự làm được năm 2009 là 1,24 triệu đồng đã tăng lên đáng kể so với năm 2008 là 0,27 triệu đồng.

79


Số lượt khám

Trước can thiệp

(6 tháng đầu năm)

n %

Sau can thiệp p

n %

Người Dao



Tổng số lượt khám

703 41,95

973 58,05

Bệnh phụ khoa

58 19,85

234 80,15 <0,01

Bệnh răng miệng

55 17,8

254 82,2

Bảng 3.35. Số lượt khám chữa bệnh tại trạm y tế của 2 xã nghiên cứu năm 2009


(6 tháng cuối năm)


Người dân tộc khác


Tổng số lượt khám

1838

50,26

1819

49,74

>0,05

Bệnh phụ khoa

79

21,23

293

78,77

<0,01

Bệnh răng miệng

133

18,98

568

81,02

<0,01


Nhận xét:


Số lượt khám chữa bệnh phụ khoa và bệnh răng miệng tăng lên rò rệt. Số lượt khám bệnh phụ khoa của phụ nữ người từ 19,85% lên 80,15%; số lượt khám bệnh răng miệng tăng từ 17,8% lên 82,2%. Tương tự như với người Dao, số lượt khám chữa bệnh phụ khoa và bệnh răng miệng của các dân tộc khác cũng tăng lên, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tổng số lượt khám của người Dao tăng từ 41,95% lên 58,05% có ý nghĩa với p < 0,01.

80


Chương 4

BÀN LUẬN


4.1. Một số đặc điểm văn hoá - xã hội của phụ nữ người Dao liên quan đến sức khoẻ

Tại huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Kạn, người Dao chiếm 14,41% dân số toàn huyện (năm 2009). Tỷ lệ người Dao nghèo của huyện năm 2009 là 30,03%. Tại hai xã nghiên cứu tỷ lệ hộ Dao nghèo (là 49,2%) cao hơn so với toàn huyện (Bảng 3.1).

Có rất nhiều yếu tố văn hoá - xã hội có liên quan và ảnh hưởng đến sức khoẻ của người Dao tại địa bàn nghiên cứu. Bằng phương pháp mô tả cắt ngang, phương pháp quan sát, chụp ảnh, vẽ bản đồ, phỏng vấn sâu, lịch mùa vụ (Seasoning)... đã phần nào cho thấy có một số yếu tố văn hoá - xã hội nổi bật có liên quan đến sức khoẻ, hành vi tìm kiếm sức khoẻ của người Dao nói chung và của phụ nữ người Dao nói riêng. Đó là:

- Nhà ở: Người Dao thường sống ở vùng núi cao, tập trung thành từng cụm nhỏ khoảng 5 đến 7 nóc nhà tạo thành một bản (thôn). Bản của người Dao thường ở vùng cao, hẻo lánh và cách biệt với các dân tộc khác. Loại nhà thường gặp là nhà sàn, nhà nửa sàn nửa đất và nhà đất chiếm 60,5% (Bảng 3.4; vẽ bản đồ, ảnh chụp). Nhà có đặc điểm là mái thấp, không có cửa sổ, thiếu ánh sáng, không thông thoáng, bếp đun ngay trong nhà. Phần lớn chuồng gia súc được người Dao làm ngay gần nhà, không có rãnh nước thải, không có hố ủ phân nên rất mất vệ sinh. Công trình phụ rất ít và không được người Dao chú trọng. Có thể, do nhà ở không hợp vệ sinh nên tỷ lệ trẻ em bị ốm trong 2 tuần trước điều tra là 38,38% (Bảng 3.13) và tỷ lệ người Dao mắc bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cao 42,36%? (Bảng 3.14 và Lịch mùa vụ).

- Đường giao thông: Phần đông số hộ gia đình ở cách trạm y tế từ 6 đến 10 km (59,9%). Ngoài ra, có tới 11,6% hộ gia đình ở cách xa trạm từ 10 km trở lên. Đường giao thông liên thôn bản và liên xã để đến trạm y tế vẫn chủ yếu là đường mòn men theo các sườn đồi, núi, đi qua cầu treo hoặc phải đi bộ

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 29/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí