97
khám sau đẻ. Mặt khác, 100% phụ nữ người Dao sử dụng bài thuốc dân tộc (Tắm, uống hoặc hầm vào thức ăn...), bài thuốc có tác dụng nhanh khoẻ người, phòng bệnh hậu sản nên nếu không có vấn đề gì về sức khoẻ sau đẻ thì phụ nữ người Dao cũng không đi khám.
* So sánh 5 chỉ số logic trong 3 năm từ 2007 đến 2009 (Theo báo cáo của trạm y tế):
Tất cả 5 chỉ số logic của dịch vụ chăm sóc sức khoẻ phụ nữ có thai trong và sau sinh từ 2007 đến 2009 đều dưới 100% (Trừ tỷ lệ sẵn có năm 2008 và năm 2009 đạt 100%). Chứng tỏ dịch vụ CSSKSS tại trạm y tế đã có sự đầu tư, tuy nhiên vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn từ nguồn lực đầu vào (tiếp cận) cho đến hiệu quả đầu ra. Các tỷ lệ trên có xu hướng tăng dần, nhất là là tỷ lệ sử dụng tăng từ 48,43 % năm 2007 lên 62,3% năm 2009, nhưng tỷ lệ sử dụng đủ và tỷ lệ sử dụng hiệu quả tăng chậm không đáng kể qua 3 năm (Bảng 3.27), đặc biệt tỷ lệ sử dụng hiệu quả không cải thiện nếu lấy theo kết quả giám sát trực tiếp 12 tháng liên tục (Bảng 3.28).
* So sánh 5 chỉ số logic năm 2009 bằng giám sát trực tiếp 12 tháng liên tiếp với sổ sách báo cáo:
Việc theo dòi giám sát 12 tháng liên tiếp năm 2009 cho kết quả chênh lệch thấp hơn so với báo cáo: tỷ lệ tiếp cận 72,4% so với 76,04%; sử dụng 53,33% so với 62,3%; sử dụng đủ 6,67% so với 11,53%; sử dụng hiệu quả 0% so với 8,2% (Bảng 3.28). Sự chênh lệch này có thể do hạn chế của công thức khi tính toán con số ước tính đẻ. Điều này cho thấy, việc theo dòi giám sát liên tục sẽ giúp CBYT có được kết quả thực tế hơn.
4.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ chăm sóc sức khoẻ của phụ nữ người Dao tại địa bàn nghiên cứu
- Ảnh hưởng của một số khía cạnh văn hoá – xã hội: Kết quả bảng 3.1 và bảng 3.2 cho thấy, tỷ lệ hộ Dao nghèo chiếm 30,03% năm 2009; trình độ học vấn của phụ nữ người Dao thấp; nghề nghiệp chủ yếu của phụ nữ Dao và chồng của họ là làm ruộng (97,6% và 99,1%). Phải chăng, do trình độ học vấn
Có thể bạn quan tâm!
- Mức Độ Bao Phủ Của Dịch Vụ Cssk Cho Phụ Nữ Có Thai Trong Sinh Và Sau Sinh Theo Sổ Sách Và Theo Dòi Liên Tiếp 12 Tháng Tại Hai Xã Nghiên Cứu Năm 2009
- Nhu Cầu Chăm Sóc Sức Khoẻ, Thực Trạng Cung Cấp Và Sử Dụng Dịch Vụ Y Tế Của Phụ Nữ Người Dao
- Tình Hình Cung Cấp Dịch Vụ Chăm Sóc Sức Khoẻ Phụ Nữ Có Thai Trước Sinh
- Nghiên cứu một số yếu tố liên quan đến dịch vụ y tế cho phụ nữ người Dao về khía cạnh văn hóa - xã hội tại huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Cạn - 14
- Nghiên cứu một số yếu tố liên quan đến dịch vụ y tế cho phụ nữ người Dao về khía cạnh văn hóa - xã hội tại huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Cạn - 15
Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.
98
thấp, kinh tế nghèo nên xử trí ban đầu khi bị ốm đau của phụ nữ rất khác nhau: Không dùng gì hoặc chỉ niệm thần chú và phù phép chiếm tỷ lệ cao nhất (37,37%), tự chữa bằng thuốc nam (29,29%), tự mua thuốc Tây (13,13%), tới cơ sở y tế chiếm 9,09%; chỉ cúng bái ở nhà chiếm 7,07%. Không có phụ nữ người Dao nào đến cơ sở y tế tư nhân để khám chữa bệnh (Bảng 3.21). Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thiên Lữ về công tác khám chữa bệnh cho người nghèo tại 5 bệnh viện của tỉnh Bắc Kạn: tỷ lệ người dân không điều trị gì chiếm 54,6% ở nhóm người nghèo [4]. Kết quả của chúng tôi thấp hơn so với kết quả của Nguyễn Thành Trung, tỷ lệ người dân ốm tự mua thuốc chiếm 41,7%; tỷ lệ người ốm không điều trị gì chiếm 16,1% [5]. So sánh với tác giả Lê Thị Hồng Thơm [66] nghiên cứu về dịch vụ y tế cho phụ nữ đồng bằng Bắc bộ thì tỷ lệ phụ nữ tự mua thuốc của nghiên cứu này thấp hơn (13,13% so với 48,6%). Tại đồng bằng, phụ nữ có thu nhập cao lựa chọn nơi khám bệnh là phòng mạch tư nhân (25,9%) cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi (0%). Tuy nhiên, tỷ lệ cúng bái ở nghiên cứu này là 7,07% trong khi đó vùng đồng bằng không có hình thức chữa bệnh này. Đây chính là nét khác biệt về văn hoá giữa miền núi và đồng bằng, giữa người dân tộc thiểu số và người Kinh. Sự khác nhau về văn hoá đã ảnh hưởng đến hành vi sử dụng dịch vụ y tế của người dân.
Người Dao quan niệm bệnh là do ma làm (Kết quả phỏng vấn sâu), muốn khỏi bệnh thì phải bói ma và cúng ma. Cho nên, có 7,07% người Dao chỉ cúng bái tại nhà mà không đến cơ sở y tế khi bị bệnh (Bảng 3.21). Hơn nữa, người Dao quan niệm bệnh nhẹ thì không cần phải đi khám chiếm 72,73% (Bảng 3.22), do vậy khi ốm đau phụ nữ người Dao thường không dùng gì hoặc chỉ niệm thần chú và phù phép chiếm tỷ lệ cao nhất (37,37%).
Kết quả từ phân tích ma trận cũng cho kết quả tương tự, bệnh nhẹ thì họ tự chữa bằng đốt đèn, phù phép ở nhà, nếu không khỏi thì dùng thuốc nam, sau đó mới đến trạm y tế nếu bệnh không đỡ. Bệnh nặng thì vừa đến cơ sở y tế vừa cúng bái ở nhà. Đây là nét văn hoá của đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc nói chung và của người Dao nói riêng. Kết quả của chúng tôi cũng
99
phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thành Trung: Lý do người dân không đi khám là do quan niệm bệnh nhẹ chiếm 50,87%; 9,92% cúng bái khi ốm đau; 76,07% đẻ tại nhà [72].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của tác giả Đàm Khải Hoàn [38] về thực trạng hoạt động của các trạm y tế cơ sở miền núi. Tại các tỉnh miền núi vẫn có tục lệ cúng bái khi ốm đau và vẫn còn phong tục đẻ tại nhà dù là có hay không có y tế giúp, tỷ lệ cúng bái trong nghiên cứu này cao hơn so với nghiên cứu của Đàm Khải Hoàn (7,07% so với 4,5%), nhưng tỷ lệ đẻ tại nhà thấp hơn nhiều (20% so với 63,97%).
Kết quả nghiên cứu của tác giả Khổng Ngọc Mai về đánh giá hiệu quả của chăm sóc trẻ em một số bản vùng cao miền núi cho thấy, sau can thiệp đã làm giảm tỷ lệ cúng bái từ 8,97% xuống còn 1,14% [50].
Một số phong tục, tập quán lạc hậu như kiêng không cho người lạ đến nhà, đẻ tại nhà... cũng ảnh hưởng đến sử dụng dịch vụ chăm sóc sau sinh của người phụ nữ (Bảng 3.30).
Thói quen canh tác, bận mùa vụ, đi rừng, khai thác kinh tế tự nhiên... cũng là một trong những lý do người Dao không đi khám bệnh (11,11%) (Bảng 3.22).
Người Dao có rất nhiều bài thuốc dân gian có tác dụng chữa bệnh, phải chăng đó là lý do khiến cho 29,29% phụ nữ người Dao khi bị bệnh đã tự chữa bằng thuốc nam nên ít đến cơ sở y tế? (Bảng 3.21).
Khoảng cách xa trạm y tế, đường đi khó khăn cũng là một đặc điểm đặc trưng cho miền núi đã ảnh hưởng rò nét đến khả năng tiếp cận của người dân (đã phân tích ở phần biểu đồ bao phủ ở trên).
Phụ nữ người Dao có nhiều lý do không đi khám bệnh khi bản thân bị ốm nhưng họ lại rất quan tâm đến sức khoẻ của con. Tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng đầy đủ đúng lịch đạt trên 95% trong 3 năm liên tục từ 2007 đến 2009 (Bảng 3.32). Trong 2 năm 2008 và 2009 không có trẻ em dưới 1 tuổi nào bị tử vong. Đạt được kết quả này, ngoài sự nỗ lực của phía cung cấp dịch vụ y tế như sẵn có nguồn lực chăm sóc trẻ em còn phải nói đến vai trò tích cực của
100
các bà mẹ trong chăm sóc con của họ. Mặc dù địa hình giao thông đi lại khó khăn, tỷ lệ tiếp cận chỉ đạt 76,04% (năm 2009) nhưng tỷ lệ sử dụng của dịch vụ tiêm chủng mở rộng trẻ em đạt 97,5%, tỷ lệ sử dụng đủ của dịch vụ này đạt 95% (Bảng 3.33). Điều này nói lên vai trò rất quan trọng của người phụ nữ trong chăm sóc sức khoẻ các thành viên trong gia đình. Tăng cường dịch vụ y tế cho phụ nữ không những bản thân người phụ nữ được chăm sóc sức khoẻ tốt hơn mà các thành viên khác trong gia đình cũng được chăm sóc tốt hơn, nhất là trẻ em.
- Ảnh hưởng của kinh tế: Kinh tế của người Dao chủ yếu là tự cung tự cấp. Năm 2009 tỷ lệ hộ Dao nghèo tại huyện Bạch Thông chiếm 30,03% cao hơn tỷ lệ hộ nghèo của toàn tỉnh Bắc Kạn (25,8%) và cao hơn so với cả nước (11%) [2], [3]. Yếu tố kinh tế cũng có ảnh hưởng đến quyết định sử dụng dịch vụ y tế của người Dao. Có 37,37% phụ nữ người Dao khi bị ốm không chữa trị gì (Bảng 3.21) và 69,7% phụ nữ Dao không đi khám bệnh là do không có đủ tiền (Bảng 3.22). Số tiền phải trả trung bình cho một đợt ốm đau là
376.250 đồng, chủ yếu do gia đình chi trả (71,7%), nguồn tiền chi trả phải vay mượn một phần và vay mượn toàn bộ chiếm 15,2% và 19,2%. Kết quả của chúng tôi thấp hơn so với kết quả của tác giả Nguyễn Thiên Lữ: số người nghèo không có khả năng chi trả viện phí cao, có 41,1% phải vay mượn và 17,6% phải bán đồ đạc trong nhà [4]. Kết quả của chúng tôi phù hợp với kết qua điều tra của Bộ Y tế đó là, tỷ lệ người nghèo không đi khám bệnh hoặc tự chữa bệnh chiếm 72,29% [9].
- Ảnh hưởng của phía cung cấp dịch vụ y tế: Trạm y tế chưa đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của người dân: tình trạng thiếu thuốc, thiếu trang thiết bị, trình độ chuyên môn yếu kém là những nguyên nhân khiến người dân không hài lòng về hoạt động của trạm. Kết quả bảng 3.19 cho thấy, có 83,9% người dân không hài lòng vì thiếu thuốc, 81,2% thiếu trang thiết bị, 51,2% về thái độ nhân viên y tế không tốt và 48,6% về trình độ chuyên môn kém. Có 50,51% cho rằng thái độ của thầy thuốc không tốt và 37,37% không tin thầy thuốc (Bảng 3.22). Bên cạnh đó, nguồn cung cấp thông tin y tế mà phụ nữ người Dao nhận được cũng không đầy đủ, có 12,8% không nhận được thông tin (Bảng 3.20).
101
4.4. Đánh giá và phân tích một số yếu tố liên quan đến cung cấp và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ hiện có tại địa phương
Kết quả của phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang cùng với việc bổ xung thông tin của phương pháp PRA, các kỹ thuật được sử dụng trong luận án là: phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm, vẽ bản đồ, chụp ảnh, phân loại, câu chuyện kể (life story), lịch mùa vụ, ma trận. Đối tượng tham gia là lãnh đạo cộng đồng, người dân và cán bộ y tế đã giúp tìm ra những bất cập, những rào cản của dịch vụ y tế ở cả hai phía cung cấp và sử dụng dịch vụ y tế bên cạnh các nguyên nhân khách quan khác. Việc phân tích nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của người Dao, mong muốn nguyện vọng của người Dao cùng với việc phân tích khả năng cung cấp dịch vụ... đã tìm ra giải pháp nhằm tăng cường dịch vụ y tế một cách khả thi và hiệu quả.
Kết quả thảo luận nhóm cho thấy người Dao có nhu cầu rất cao đối với các dịch vụ khám chữa bệnh thông thường: Chăm sóc răng miệng cho trẻ em, khám chữa bệnh phụ khoa cho phụ nữ, bệnh tai mũi họng. Các yếu tố được người Dao yêu cầu đó là cán bộ y tế phải giỏi chuyên môn, trạm phải có đủ thuốc, phải có dụng cụ khám chữa các bệnh thông thường, ngoài ra một số kỹ thuật giúp cho chẩn đoán cũng được người Dao quan tâm như soi tươi, nhuộm phiến đồ âm đạo... làm cho người Dao tin tưởng hơn là chỉ khám đơn thuần.
Về phía cán bộ y tế: Hoàn toàn có khả năng đáp ứng các nhu cầu này nếu được cung cấp dụng cụ, được đào tạo và đề xuất cơ chế hoạt động phù hợp với qui luật cung – cầu theo cơ chế thị trường và theo đặc thù của địa bàn.
Về phía lãnh đạo cộng đồng: Rất ủng hộ các hoạt động của trạm y tế nhằm đáp ứngnhu cầu chăm sóc sức khoẻ của người dân và đã có những quyết định như:
- Quyết định gửi cán bộ y tế đào tạo nha khoa tại trường cao đẳng y tế Hải Dương.
- Quyết định mời giảng viên từ Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên lên đào tạo tại chỗ về kỹ thuật soi tươi và nhuộm tiêu bản.
- Quyết định cho thu phí thí điểm trong 6 tháng một số dịch vụ tại trạm y tế.
102
- Hàng tháng thông báo các đợt khám có sự hỗ trợ chuyên môn từ phía các bác sỹ có chuyên môn cao (bác sỹ chuyên khoa răng hàm mặt - Viện giám định y khoa trung ương, bác sỹ chuyên khoa da liễu - Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên, bác sỹ tư vấn sức khoẻ - trường Đại học Y Dược Thái Nguyên) tại trạm y tế.
- Huy động các nguồn lực của các tổ chức (như tổ chức Childfund), cá nhân góp sức trong việc chăm sóc sức khoẻ người dân.
- Huy động lực lượng y tế thôn bản tham gia tuyên truyền các hoạt động khám chữa bệnh tại trạm.
- Công khai bảng giá, tên dịch vụ tại trạm y tế.
Sau hàng loạt các hoạt động trên, trạm y tế đã thu được kết quả: Trang thiết bị, thuốc và dụng cụ khám chữa bệnh răng miệng, bệnh phụ khoa đã được mua sắm mới và đầy đủ cho trạm hoạt động. Cán bộ y tế đã được cử đi đào tạo kỹ thuật khám chữa răng và phụ khoa. Bên cạnh đó, nguồn kinh phí cấp cho trạm cũng được UBND xã, UBND huyện quan tâm. Nguồn kinh phí do các dự án, tổ chức, cá nhân tài trợ được duy trì. Đặc biệt, khoản kinh phí mà trạm y tế tự làm được năm 2009 là 1,24 triệu đồng đã tăng lên đáng kể so với năm 2008 là 0,27 triệu đồng (Bảng 3.34).
Kết quả bảng 3.35 và biểu đồ 3.9 cho thấy số lượt khám chữa bệnh phụ khoa và bệnh răng miệng tăng lên rò rệt. Số lượt khám bệnh phụ khoa của phụ nữ người Dao tăng từ 19,85% lên 80,15%; số lượt khám bệnh răng miệng tăng từ 17,8% lên 82,2%. Tương tự như với người Dao, số lượt khám chữa bệnh phụ khoa và bệnh răng miệng của các dân tộc khác cũng tăng lên, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tổng số lượt khám của người Dao tăng từ 41,95% lên 58,05% có ý nghĩa với p < 0,01.
Tóm lại, các hoạt động y tế sẽ có hiệu quả khi đáp ứng đúng nhu cầu, nguyện vọng của người dân, có cơ chế hoạt động để động viên tinh thần và tăng thêm thu nhập cho cán bộ y tế, có sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo cộng đồng và biết huy động nguồn lực của chính cộng đồng.
103
KẾT LUẬN
1. Nhu cầu chăm sóc sức khoẻ và thực trạng cung cấp, sử dụng dịch vụ y tế của phụ nữ người Dao huyện Bạch Thông, Bắc Kạn
Nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của người Dao là rất lớn, tỷ lệ ốm 30,1%, trong đó nhu cầu CSSK của phụ nữ 23,23% chỉ sau nhu cầu CSSK trẻ em (38,38%). Phụ nữ Dao bị bệnh phụ khoa (17,41%) cao hơn phụ nữ dân tộc khác (10,17%) với p < 0,05.
Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho phụ nữ có thai trước sinh có xu hướng tăng lên nhưng không đồng đều và còn nhiều bất cập. Tồn tại từ nguồn lực đầu vào đến hiệu quả đầu ra, tồn đọng lớn nhất là sử dụng đủ (23,75%).
Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho phụ nữ có thai trong và sau sinh đạt được tỷ lệ sẵn có là 100%, các tỷ lệ khác cũng có xu hướng tăng lên nhưng không rò rệt. Tồn đọng lớn nhất là sử dụng đủ (11,53%).
Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em đạt kết quả khá tốt.
2. Những yếu tố ảnh hưởng đến chăm sóc sức khoẻ phụ nữ người Dao
- Một số yếu tố văn hoá:
+ Có ảnh hưởng không tốt đến CSSK phụ nữ người Dao: Quan niệm bệnh là do ma làm nên nghi lễ cúng ma khi đau ốm rất phổ biến, kiêng không cho người lạ đến nhà khi sinh đẻ, bận mùa vụ do tập quán canh tác... đã hạn chế việc đi khám sau đẻ của phụ nữ (91,25% sản phụ người Dao không được khám sau đẻ). Khoảng cách địa lý, địa hình cũng là yếu tố cản trở người Dao tiếp cận DVYT (76,29% đến trạm y tế từ 60 phút trở lên). Phong tục đẻ tại nhà vẫn còn dù có y tế hay không có y tế giúp (20%).
+ Có ảnh hưởng tốt đến CSSK phụ nữ người Dao: 100% phụ nữ người Dao tắm thuốc dân tộc sau khi đẻ để nhanh khoẻ người. Kiêng làm việc nặng nhọc khi có thai, kiêng ăn thức ăn ôi, thiu. Khi có thai và khi sinh đẻ được gia
104
đình quan tâm chăm sóc về tinh thần và vật chất giúp người phụ nữ nhanh chóng phục hồi sức khoẻ và có đủ sữa nuôi con.
- Một số yếu tố kinh tế, xã hội và dân tộc: Tỷ lệ hộ Dao nghèo cao (30,03%), trình độ văn hoá thấp, ít nhận được nguồn thông tin y tế đã khiến cho nhận thức về bệnh cũng như cách xử trí của người Dao khi bị bệnh gặp nhiều khó khăn: 37,37% phụ nữ người Dao khi bị ốm không dùng gì hoặc chỉ niệm thần chú và phù phép; tự chữa bằng thuốc nam (29,29%); tự mua thuốc Tây (13,13%); tới cơ sở y tế (9,09%); chỉ cúng bái ở nhà chiếm 7,07%.
- Một số yếu tố do phía cung cấp dịch vụ y tế: Vừa thiếu vừa yếu: Cơ sở vật chất, thuốc và trang thiết bị nghèo nàn, thiếu các trang thiết bị cho khám chuyên khoa, khám sản, khám phụ khoa. Trình độ chuyên môn của CBYT không cao, không có loại giỏi, kém về kiến thức 15%, kém về thực hành 28,33%. Người Dao không hài lòng về các hoạt động của trạm y tế: 83,9% do thiếu thuốc; 81,2% do thiếu trang thiết bị y tế; 59,27% do thái độ thầy thuốc không tốt; 48,6% do trình độ chuyên môn yếu. Chính vì vậy mà 50,51% người Dao không đi khám bệnh do thái độ thầy thuốc; 37,37% không tin tưởng thầy thuốc.
3. Một số yếu tố liên quan đến cung cấp và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ hiện có tại địa phương
Sau các hoạt động như: Mua mới và bổ sung trang thiết bị (nha khoa, phụ khoa), đào tạo CBYT (Kỹ thuật viên nha khoa, kỹ thuật soi tươi chẩn đoán và điều trị bệnh phụ khoa), thu phí thí điểm một số dịch vụ, tăng cường cấp ngân sách cho trạm y tế, huy động sự ủng hộ của các tổ chức, cá nhân, tăng cường tổ chức khám chữa bệnh, truyền thông giáo dục sức khoẻ... đã thu được một số kết quả: Số lượt khám chữa bệnh phụ khoa và bệnh răng miệng tăng lên rò rệt. Số lượt khám bệnh phụ khoa của phụ nữ người Dao tăng từ 19,85% lên 80,15%; số lượt khám bệnh răng miệng tăng từ 17,8% lên 82,2%. Tương tự như với người Dao, số lượt khám chữa bệnh phụ khoa và bệnh răng miệng của các dân tộc khác cũng tăng lên. Tổng số lượt khám của người Dao tăng từ 41,95% lên 58,05% (p < 0,01).
.....