Vai Trò Của Hoạt Động Tdtt Đối Với Sức Khoẻ Của Con Người


xướng công cuộc đổi mới toàn diện trong mọi lĩnh vực của cách mạng Việt Nam. Thể dục thể thao luôn được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước. Trong báo cáo chính trị của Ban Chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội Đảng lần thứ VI có nêu: “Mở rộng và nâng cao chất lượng của phong trào TDTT quần chúng, từng bước đưa việc rèn luyện thân thể thành thói quen hàng ngày của đông đảo nhân dân, trước hết là thế hệ trẻ. Nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong trường học các cấp’’. [10].

Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới để theo kịp sự phát triển của thời đại, chuẩn bị tiền đề vững chắc cho đất nước bước vào thế kỷ XXI, vấn đề đào tạo con người trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Đặc biệt trong thời kỳ này, để thực hiện tốt và nâng cao hiệu quả, chất lượng của công tác TDTT nói chung và GDTC nói riêng, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu phát triển của đất nước, Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VII đã ra chỉ thị 36/ CT-TƯ ngày 24/3/1994 về công tác TDTT trong giai đoạn mới [7]. Trong chỉ thị, Ban Chấp hành Trung ương đã nêu những đánh giá về những việc đã làm được, đồng thời vạch ra những yếu kém của công tác TDTT trong thời gian qua trên các lĩnh vực TDTT quần chúng, thể thao thành tích cao và thể thao trường học. Chỉ thị cũng chỉ rõ định hướng phát triển, những mục tiêu cơ bản lâu dài, những mục tiêu trước mắt của nền TDTT nước ta.

Chỉ thị 36/CT-TƯ của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã chỉ ra những yếu kém và nguyên nhân yếu kém của công tác TDTT là: “Nhiều cấp uỷ Đảng, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và còn xem nhẹ vai trò của TDTT trong sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, chưa thực sự coi TDTT là một bộ phận trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng. Ngành TDTT và các ngành, đoàn thể nhân dân chưa phối hợp chặt chẽ trong công tác TDTT. Nhà nước chưa kịp thời bổ xung, sửa đổi các chính sách, chế độ phù hợp với yêu cầu phát triển TDTT, đầu tư cho lĩnh vực TDTT còn rất hạn chế. Quản lý ngành TDTT còn kém hiệu quả, chưa có cơ chế thích hợp để phát


huy những nhân tố mới, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân nhằm phát triển TDTT” [7].

Để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của đất nước trong tình hình mới, công tác TDTT cần khắc phục những tồn tại, yếu kém và phát triển đúng hướng theo quan điểm của Đảng: “ Phát triển TDTT là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Công tác TDTT phải góp phần tích cực nâng cao sức khoẻ, thể lực, giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động xã hội...”[7].

Nghị quyết Số: 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 01/12/2011 Về tăng cường sự lãnh đạo của đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến năm 2020;yêu cầu cụ thể sự phối hợp của các cấp, các ngành về công tác TDTT là:

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác TDTT... Đẩy mạnh công tác giáo dục tuyên truyền về TDTT trong toàn xã hội...

Đề nghị các cơ quan nhà nước ban hành các văn bản pháp quy về công tác TDTT, quy định chế độ tập luyện TDTT trong trường học, lực lượng vũ trang, cơ quan xí nghiệp...

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 210 trang tài liệu này.

Chỉ đạo ngành TDTT cải tiến công tác quản lý, phối hợp với các ngành, các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội...

Tại Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về công tác giáo dục đã chỉ rõ: “Phát triển phong trào TDTT sâu rộng trong cả nước, trước hết là trong dân, thiếu niên, tạo chuyển biến tích cực về chất lượng và hiệu quả giáo dục thể chất trong trường học, trong các lực lượng dự bị quốc phòng và lực lượng vũ trang. Mở rộng quốc tế về TDTT, từng bước hình thành lực lượng thể thao chuyên nghiệp” [11].

Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thể dục thể thao ngoại khóa cho sinh viên trường Đại học Sài Gòn - 3

Ban cán sự Đảng Bộ Giáo dục và đào tạo và ban cán sự Đảng Tổng cục TDTT phối hợp chỉ đạo, tổng kết công tác giáo dục thể chất, cải tiến chương


trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo giáo viên TDTT cho trường học các cấp, tạo điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất để thực hiện chế độ GDTC bắt buộc ở tất cả các trường học nhằm nâng cao sức khỏe, thể thao học đường thật sự đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nước.

1.2. Vai trò của hoạt động TDTT đối với sức khoẻ của con người

Sức khoẻ được coi là vốn quý giá nhất của con người, bởi vậy quan tâm và chăm sóc tới sức khoẻ con người chính là quan tâm tới sự phát triển mọi mặt, không chỉ đối với mỗi con người, mỗi ngành, mỗi dân tộc, mà cả Quốc gia, và toàn thể nhân loại.

Y học ngày nay càng khẳng định sức khoẻ của con người phải là sức khoẻ của cả thể xác lẫn tinh thần. Chỉ khi nào cơ thể của con người lành mạnh tâm hồn con người thoải mái thì khi đó con người mới có sức khoẻ. Tổ chức y tế Thế giới (WHO) nêu định nghĩa về sức khoẻ năm 1978 như sau “Sức khoẻ không chỉ là không bệnh tật mà còn là trạng thái thoải mái về tâm hồn, về thể xác, về xã hội”.

Sức khoẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh có vai trò to lớn trong cuộc sống của mỗi con người, mỗi quốc gia trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng xã hội mới. Trong lời kêu gọi toàn dân tập thể dục, Bác đã nhấn mạnh: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới làm thành công” [85].

Sức khoẻ của con người là nhân tố cơ bản góp phần làm nên sức khoẻ tổng hợp về thế và lực của quần chúng nhân dân. Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Con người có sức khoẻ thì tinh thần thoải mái hơn, làm ra của cải vật chất nhiều hơn cho xã hội, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Bác Hồ đã chỉ ra một chân lý

“Dân cường thì nước thịnh” và Người dạy rằng: “việc gì có lợi cho dân, ta phải


hết sức làm, việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh” Làm thể dục thể thao là đem lại lợi ích cho nhân dân, cho dân tộc, do đó Người rất quan tâm và chỉ hướng phát triển. Việc thường xuyên tập luyện thể dục thể thao là nhằm giữ gìn và củng cố sức khoẻ cho mọi người, và chính Bác Hồ là một tấm gương sáng về rèn luyện thân thể để chúng ta noi theo, Bác nói “Tự tôi ngày nào cũng tập” [85].

Sinh viên các trường các trường đại học, cao đẳng nói chung và sinh viên trường Đại học Sài Gòn nói riêng là chủ nhân tương lai của đất nước và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, việc rèn luyện và phát triển thể lực của mỗi sinh viên nói chung và sinh viên trường Đại học Sài Gòn nói riêng ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường sẽ giúp họ khi tốt nghiệp ra trường sẽ nhanh chóng hoà nhập với thực tế công tác và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

1.3. Các khái niệm có liên quan đến vấn đề nghiên cứu

1.3.1. Khái niệm về Giáo dục thể chất

Theo Nguyễn Toán và Phạm Danh Tốn “Giáo dục thể chất (GDTC) là một bộ phận của giáo dục nói chung cũng như các ngành giáo dục khác, GDTC bao gồm những nhiệm vụ giáo dục, giáo dưỡng thông qua trình sư phạm hoặc dưới hình thức tự giáo dục”[79].

Theo Novicov A.D, Matveep L.P “Giáo dục thể chất là một quá trình giải quyết những nhiệm vụ giáo dưỡng nhất định, mà đặc điểm của quá trình này có tất cả các dấu hiệu chung của quá trình sư phạm, có vai trò chỉ đạo của nhà sư phạm, tổ chức hoạt động tương ứng với các nguyên tắc sư phạm”[56].

Trong GDTC có hai bộ phận đặc thù cơ bản là giảng dạy các động tác (các hành vi vận động) và giáo dục các tố chất thể lực (các năng lực thể chất). Nói cách khác đặc điểm giáo dục thể chất là giảng dạy kỹ thuật động tác và bồi dưỡng thể lực cho người học, đồng thời thông qua lượng vận động của các bài tập mà kích thích điều chỉnh sự phát triển các đặc tính tự nhiên của cơ thể: Sức mạnh, sức bền. Nhờ các bài tập thể dục ta có thể thay đổi được hình thái chức


năng, tạo ra những biến đổi thích nghi ngày càng tăng lên của cơ thể như: hoàn thiện các chức năng điều chỉnh của hệ thần kinh, làm tăng trưởng cơ bắp, tăng thêm khả năng chức phận của hệ tim mạch

Quyết định số 72/2008/QĐ-BGDĐT về việc ban hành qui định tổ chức hoạt động TDTT ngoại khóa cho học sinh, sinh viên qui định:“ GDTC ngoại khóa là hoạt động tự nguyện của người học được tổ chức theo phương thức ngoại khóa phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người học thực hiện quyền vui chơi, giải trí, phát triển năng khiếu thể thao. GDTC ngoại khóa tạo sự chuyển biến rõ rệt về thể thao trường học góp phần nâng cao thể trạng và tầm vóc người Việt Nam, giáo dục con người phát triển toàn diện, đáp ứng nhu cầu phát triển tinh thần của học sinh, sinh viên - lực lượng tham gia vào quá trình lao động, xây dựng bảo vệ Tổ quốc sau này

Xây dựng mới chương trình giảng dạy các môn thể thao ngoại khóa phải được tuân thủ theo đúng các chức năng, nhiệm vụ, vai trò của GDTC, các văn bản của Bộ GD&ĐT nhằm đáp ứng nhu cầu TDTT cho sinh viên, giáo dục con người phát triển toàn diện, nâng cao chất lượng đào tạo.

1.3.2. Khái niệm về giải pháp

Khái niệm giải pháp: Theo từ điển Tiếng Việt định nghĩa “Giải pháp’’ được hiểu là phương pháp giải quyết một vấn đề [87]. Ở đây giải pháp được hiểu là cách thức, là một công cụ người ta dùng để giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn. Trong cách hiểu này đôi khi người ta cũng dùng thuật ngữ “ biện pháp” để thay thế. Theo từ điển Tiếng Việt “ biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể” [87]. Tuy nhiên hai khái niệm này có thể dùng thay thế cho nhau trong thực tiễn, nhưng về bản chất, khái niệm “giải pháp” có nghĩa là nội dung rộng lớn hơn, có tính chất vĩ mô hơn so với “ biện pháp” thường để chỉ cách thức giải quyết một công việc cụ thể nào đó. Theo nghĩa này, người ta còn xem biện pháp là cách thức, công cụ thực hiện giải pháp để thực hiện giải pháp đó.


Trong quản lý, giải pháp dùng để giải quyết một vấn đề thường được đặt ra trên nền tảng của việc phân tích các điểm mạnh (thành tựu), điểm yếu (hạn chế) của một tổ chức, những cơ hội và thách thức đối với tổ chức đó trong bối cảnh chung của xã hội ở phạm vi quốc gia và quốc tế. Giải pháp đồng thời cũng dựa trên các quan điểm, mục tiêu tổng quất và mục tiêu chung của vấn đề được đặt ra và giải quyết ở tầm vĩ mô.

Trong giáo dục, mọi vấn đề quan hệ giáo dục đề có tính quy luật. Giải pháp GD là một hệ thống những quy luật, nhiệm vụ của các nhà khoa học, các nhà quản lý giáo dục là phải nghiên cứu tìm ra các quy luật đảm bảo cho những thành công của công tác giáo dục. Điều này đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải phân tích được thực tiễn giáo dục Việt Nam nói riêng và các nền GD tiên tiến trên thế giới, từ đó khái quát thành những giải pháp cơ bản, đúng đắn, phù hợp với nền giáo dục trong nước.

Giải pháp thường được gắn liền với từ "đột phá" hoặc "then chốt" nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của giải pháp đó. Có thể hiểu "giải pháp đột phá" là giải pháp mở đường cho các giải pháp khác, còn "giải pháp then chốt" là giải pháp quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn đối với toàn bộ các vấn đề liên quan. Như trong các giải pháp Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 - 2020, Thủ tướng chính phủ đã xác định giải pháp "đổi mới quản lý giáo dục là giải pháp đột phát", còn "phát triển nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là giải pháp then chốt" [76].

Trong đề tài luận án này sử dụng khái niệm giải pháp với ý nghĩa là cách thức để nâng cao hiệu quả hoạt động TDTT ngoại khóa cho sinh viên trường Đại học Sài Gòn... Như vậy khái niệm giải pháp mà đề tài sử dụng còn là một phương thức tổ chức thực hiện gồm có mục đích, nội dung, phương pháp triển khai, cách đánh giá kết quả.

1.3.3. Khái niệm hiệu quả

Theo từ điển tiếng Việt là kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại [87].

Tính hiệu quả theo quan niệm chung, đó là sự thể hiện mối quan hệ chung nhất


giữa đầu tư công sức, nhân lực, vật lực với kết quả đạt được sau một giai đoạn nhất định xét theo mục tiêu giáo dục trong những điều kiện cụ thể. Vì vậy việc đánh giá hiệu quả có thể thực hiện một cách định lượng thông qua quá trình thu thu thập và xử lý thông tin về trình độ, khả năng thực hiện của đối tượng với mục tiêu đề ra.

Trong công tác TDTT trường học, đánh giá hiệu quả GDTC và HĐTT là quá trình thu thập và xử lý thông tin nhằm mục đích tạo cơ sở cho những quyết định về chương trình, mục tiêu, phương pháp dạy học, những hoạt động khác có liên quan của nhà trường và ngành giáo dục. Đánh giá hiệu quả GDTC và HĐTT trường học là so sánh kết quả của các hoạt động GDTC và thể thao trường học đã đạt được với mục tiêu đề ra. Mục tiêu của việc đánh giá hiệu quả giáo dục cũng là mục tiêu của quá trình giáo dục.

Về phương diện kỹ thuật, đánh giá hiệu quả TDTT trong trường học cần xác định các vấn đề như:

Khẳng định tính xác thực của mục tiêu GDTC và hoạt động Thể thao trường học.

Xác định mực độ đạt được của mục tiêu thể hiện trong sản phẩm giáo dục.

Khẳng định tính nhân quả giữa quá trình GDTC và HĐTT đối với sản phẩm được đào tạo, nói cách khác là chất lượng đầu ra của học sinh, sinh viên.

Tính hiệu quả của hoạt động TDTT trong trường học còn thể hiện qua kết quả học tập và rèn luyện, đó là mức độ thành tích đạt được, xem xét mối quan hệ với công sức, thời gian bỏ ra với mục tiêu đã xác định. Như vậy, kết quả học tập, rèn luyện của học sinh, sinh viên là mức độ thực hiện những mục tiêu đã định trước. Vì vậy, đánh giá hiệu quả dạy học được thông qua đánh giá kết quả học tập, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh, sinh viên, về những yếu tố ảnh hưởng và nguyên nhân của tình hình học tập nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường, cho bản thân học sinh, sinh viên học tập ngày một tiến bộ hơn.


Với cách hiểu như vậy hiệu quả hoạt động TDTT ngoại khóa là kết quả như yêu cầu của của hoạt động TDTT ngoại khóa mang lại. Hiệu quả hoạt động TDTT ngoại khóa cho sinh viên là sự thể hiện mối quan hệ chung nhất giữa đầu tư công sức cho hoạt động ngoại khóa bao gồm nhân lực, vật lực với kết quả đạt được sau một giai đoạn nhất định xét theo mục tiêu của hoạt động ngoại khóa trong những điều kiện cụ thể. Vì vậy việc đánh giá hiệu quả hoạt động TDTT ngoại khóa có thể thực hiện một cách định lượng thông qua quá trình thu thập thông tin về phong trào tập luyện, về trình độ, khả năng thực hiện của đối tượng đối với mục tiêu đã đề ra.

Như vậy hiệu quả hoạt động TDTT ngoại khóa được đánh giá qua phong trào tập luyện và được thể hiện thông qua số người tham gia tập luyện, số câu lạc bộ và đội tuyển, ngoài ra TDTT ngoại khóa là yếu tố cấu thành lên TDTT trường học chính vì thế khi đánh giá về trình độ của người tập nó còn được đánh giá thông qua kết quả học tập, kết quả thi đẳng cấp và kết quả rèn luyện thể lực của sinh viên, đó là mức độ thành tích đạt được, học lực đạt được xem xét với mối quan hệ với công sức, thời gian bỏ ra với mục tiêu đã xác định.

1.3.4. Khái niệm hoạt động TDTT ngoại khóa

Trong Quyết định số 72/2008/QĐ-BGDĐT ngày 23/12/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Về việc ban hành Quy định tổ chức hoạt động thể thao ngoại khóa cho học sinh, sinh viên, đã chỉ rõ Hoạt động TDTT ngoại khóa: là hoạt động TDTT tự nguyện có tổ chức được tiến hành ngoài giờ chính khóa, phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khỏe của học sinh, sinh viên. Hoạt động TDTT ngoại khóa rất đa dạng bao gồm hoạt động TDTT được quy định trong giờ giải lao, huấn luyện đội tuyển của trường, tập luyện trong các CLB TDTT, các hoạt động thi đấu thể thao [24].

Hoạt động TDTT ngoại khóa có vị trí đáng kể trong giáo dục và trong TDTT trường học nói riêng và trong hệ thống giáo dục đào tạo Đại học nói

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/10/2022