Xác định các tác nhân tham gia CCSPTN
Xác định các tác nhân tham gia CCSPTN, bao gồm các tác nhân tham gia dòng thượng nguồn CCSPTN cung cấp các yếu tố đầu vào chủ yếu như: cơ sở sản xuất tôm giống, thức ăn cho tôm, dịch vụ đầu vào; đơn vị nuôi tôm - tác nhân trung tâm, các tác nhân tham gia dòng hạ nguồn, phân phối SPTN như: thu gom, cơ sở chế biến và xuất khẩu tôm, người bán buôn, bán lẻ. Mỗi tác nhân là một mắt xích, thực hiện các hoạt động trong từng công đoạn tương ứng, trên cơ sở sử dụng các yếu tố nguồn lực của mình nhằm tạo giá trị cho sản phẩm đáp ứng yêu cầu của khách hàng cuối cùng.
Quá trình chuyển hóa của dòng sản phẩm vật chất
Quá trình chuyển hóa của dòng sản phẩm vật chất hình thành dòng sản phẩm vật chất. Sản phẩm này chuyển động từ các nhà cung cấp đầu vào như tôm giống, thức ăn công nghiệp, TTYTS, đến đơn vị nuôi tôm, đến người thu gom và đến khách hàng cuối cùng hoặc đến các cơ sở chế biến thủy sản và xuất khẩu. Đây là dòng không thể thiếu được trong CCSPTN. Nó gắn liền với các hoạt động cơ bản và dịch vụ hỗ trợ [56] [59] [92]. Theo lý thuyết điểm hạn chế (Theory of Constraint) của Goldratt dựa trên ý tưởng là toàn bộ hệ thống sẽ có ít nhất một điểm hạn chế gọi là điểm nghẽn, vì năng lực của mỗi phần trong hệ thống là không giống nhau. Dòng chảy sản phẩm qua nguồn lực ách tắc sẽ tạo thành những điểm thắt cổ chai (bottlenecks). Để dòng chảy thông suốt, tránh lãng phí, đòi hỏi tỷ lệ đầu vào của toàn bộ hệ thống được thiết lập dựa vào tỷ lệ đầu vào đạt được ở những điểm tắc nghẽn. Theo Goldratt, để cải thiện những điểm gây nghẽn trong hệ thống, hãy bổ sung công suất vận hành (năng suất) của các hoạt động bị ngừng trệ. Do tỉ lệ sản lượng đầu vào của toàn hệ thống được thiết lập dựa theo sản lượng tại điểm gây nghẽn, nên việc cải thiện những điểm này sẽ làm gia tăng hiệu quả của toàn hệ thống và tạo ra lợi nhuận đầu tư tốt nhất [73].
Quá trình tạo giá trị trong CCSPTN
Quá trình tạo giá trị là quá trình hoạt động của các tác nhân tạo ra và phân phối sản phẩm tôm nuôi nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng cuối cùng và cũng là mục tiêu của chuỗi cung. Muốn đạt được mục tiêu này mỗi khách hàng trung gian trong CCSPTN phải đáp ứng được nhu cầu của khách hàng trên chúng. Khi làm
điều này, họ sẽ tạo ra giá trị cho người tiêu dùng sản phẩm tôm nuôi của họ [44] [91]. Sơ đồ 1.5, mô tả quá trình tạo giá trị cho sản phẩm, khi nó đi qua từng tác nhân trong chuỗi cung và sản phẩm hoàn chỉnh tới tay khách hàng cuối cùng.
Nhu cầu khách hàng |
Có thể bạn quan tâm!
- Các Công Trình Nghiên Cứu Chuỗi Cung Sản Phẩm Nông Nghiệp, Sản Phẩm Tôm Nuôi
- Cấu Trúc Chuỗi Cung Và Các Tác Nhân Tham Gia Chuỗi Cung
- Khái Niệm Chuỗi Cung Và Quản Lý Chuỗi Cung Sản Phẩm Tôm Nuôi
- Ý Nghĩa Của Phân Tích Chuỗi Cung Sản Phẩm Tôm Nuôi
- Đặc Điểm Tự Nhiên, Kinh Tế Xã Hội Ảnh Hưởng Đến Ccsptn Ở Quảng
- Thực Trạng Ngành Hàng Tôm Nuôi Ở Tỉnh Quảng Nam Thời Kỳ 2007- 2012
Xem toàn bộ 272 trang tài liệu này.
Hoạt động tạo giá trị |
Hoạt động tạo giá trị |
Hoạt động tạo giá trị |
Nhà cung cấp
Hoạt động tạo giá trị
Ðường nhận thông tin từ khách hàng phía trên
Đường tạo giá trị đáp ứng nhu cầu khách hàng phía trên
Sơ đồ 1.5. Quá trình tạo giá trị trong chuỗi cung
Nguồn: Martin, Sandra; Jagadish, Ayyamani, 2005[dẫn theo 56,58]
Đơn vị sản xuất kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong việc tạo giá trị cho chuỗi cung. Mỗi đơn vị SXKD có những nguồn lực cần thiết có thể sử dụng để tạo giá trị. Các nguồn lực này có thể vật chất (tôm giống, thức ăn, TTYTS) hay tự nhiên (đất đai, nguồn nước…), vốn và cả nhân lực. Khả năng tận dụng tối đa các nguồn lực này phụ thuộc vào khả năng cải tiến, sáng tạo của đơn vị SXKD (tác nhân) tham gia CCSPTN. Trong một đơn vị SXKD có thể thấy cách tạo giá trị như Sơ đồ 1.6 [56].
Đơn vị SXKD tạo ra giá trị thông qua các hoạt động ở bất kỳ điểm nào trong chuỗi cung như: cung cấp tôm giống, TACN, TTYTS, nuôi tôm, thu gom, chế biến sản phẩm (sấy khô, chiết suất, nhãn mác, bao bì, bảo quản, nâng cao hoàn thiện sản phẩm), phân phối và bán lẻ. Đơn vị SXKD sử dụng các nguồn tài nguyên và khả năng của mình để tạo ra giá trị cho các khách hàng trung gian và bằng cách làm như vậy sẽ tạo ra lợi nhuận. Giá trị được tạo ra chủ yếu qua hoạt động của đơn vị SXKD, nhưng nó sẽ được gia tăng thông qua các liên kết với khách hàng và nhà cung cấp đầu vào của nó. Việc liên kết với các nhà cung cấp đầu vào liên quan đến hoạt động mua đầu vào và hậu cần đầu vào. Liên kết với khách hàng cũng liên quan đến việc bán sản phẩm và hậu cần đầu ra.
Liên kết với các nhà cung cấp đầu vào | Hoạt động sản xuất kinh Kết nối với doanh của một đơn vị khách hàng |
- Hoạt động mua vào - Hậu cần đầu vào - Bảo quản sản phẩm (đảm bảo chất lượng) | - Sản xuất, Sự vận chuyển - Bán sản phẩm sản phẩm,xử lý… - Hậu cần đầu ra - Cải thiện sản phẩm (lau - Bảo quản sản phẩm(đảm chùi, phân cấp, chế biến, bảo chất lượng) đóng gói, trưng bày) |
Lợi nhuận của một đơn vị kinh doanh |
Sơ đồ 1.6. Mô hình hoạt động tạo thêm giá trị của đơn vị sản xuất kinh doanh
Nguồn: Martin, Sandra; Jagadish, Ayyamani, 2005[dẫn theo 56,59]
Liên quan đến giá trị gia tăng cần phân biệt thuật ngữ tạo giá trị và giá trị chiếm đoạt. Tạo giá trị được hiểu là tổng giá trị ròng (tổng số kết quả trừ đi tổng số đầu vào) được tạo ra trong một nỗ lực hợp tác giữa các tác nhân trong chuỗi cung sản phẩm; giá trị chiếm đoạt được hiểu là giá trị của phần lớn hơn cho một bên đơn vị SXKD tham gia làm giảm phần còn lại của các đối tác khác trong “chiếc bánh giá trị”. Tạo ra giá trị là một kịch bản mà các tác nhân tham gia chuỗi cung cùng có lợi, thể hiện sự khác biệt giữa giá trị sản phẩm và chi phí HĐTGT được sử dụng để làm ra sản phẩm đó; còn giá trị chiếm đoạt phụ thuộc vào mỗi tác nhân tham gia vào việc sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ cụ thể, đặc biệt là khả năng thương lượng của mỗi tác nhân [61] [76] [105].
Như vậy, sự hợp tác giữa các đối tác là chìa khóa để tạo ra giá trị trong quản lý chuỗi cung. Sự hợp tác tồn tại khi các tác nhân trong chuỗi sẵn sàng cùng nhau làm việc, nó cho phép các đối tác cùng nhau đạt được sự hiểu biết tốt hơn về nhu cầu sản phẩm trong tương lai và thực hiện các chương trình thực tế hơn để đáp ứng nhu cầu đó. Nó có thể tập trung vào việc sắp xếp các bên và sau đó nâng cao giá trị của các hoạt động kết hợp trong mạng lưới chuỗi cung [77] [102].
Phân tích quá trình tạo giá trị gia tăng của từng công đoạn mà mỗi tác nhân thực hiện là xem xét chi phí HĐTGT của từng tác nhân để tạo giá trị gia tăng, đó
chính là quá trình thực hiện lợi nhuận của mỗi tác nhân tham gia CCSPTN. So sánh tỷ lệ chi phí HĐTGT mà mỗi tác nhân đầu tư để thực hiện các hoạt động SXKD của mình với tỷ lệ lợi nhuận thu được của mỗi tác nhân đó, tính toán mức độ thua thiệt, mức độ hưởng lợi bất hợp lý của mỗi tác nhân, đưa ra các giải pháp xử lý phù hợp nhằm giải quyết tốt bài toán phân phối lợi ích giữa các tác nhân tham gia chuỗi cung; từ đó, nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi ở địa phương.
Các dòng chảy và các mối quan hệ trong CCSPTN
Theo các chuyên gia Ngân hàng thế giơi (2008), chuỗi cung thực phẩm trong nông nghiệp (Sơ đồ 1.7) là các mạng lưới có ba dòng chảy cơ bản xuyên suốt chiều dài của chuỗi là dòng sản phẩm vật chất, dòng thông tin và dòng tài chính [58,19] [59]. Vì vậy, CCSPTN cũng tồn tại ba dòng chảy trên.
Môi trường cho phép-Nội địa và quốc tế Thị trường quốc tế
Dịch vụ Thị trường nội địa
hỗ trợ
t
Nhà xuất khẩu Nhà bán lẻ ch
ấ
t ậ
Hậu cần nh tin
v
m í
Người chế biến ph ch ông
ẩ
i
Tài chính n t th
à
Trung gian chuyển tiếp s òng òng
ả
Kỹ thuật òng D D
Nhà sản xuất D
Cung cấp đầu vào
Môi trường cho phép-Nội địa và quốc tế
Thị trường quốc tế
Dịch vụ hỗ trợ
Thị trường nội địa
Nhà xuất khẩu
Nhà bán lẻ
Hậu cần
Người chế biến
Tài chính
Trung gian chuyển tiếp
Kỹ thuật
Nhà sản xuất
Cung cấp đầu vào
Dòng sản phẩm vật chất là dòng chảy không thể thiếu trong bất kỳ chuỗi cung nào đã được đề cập ở phần trên.
Dòng sản phẩm vật chất
Dòng tài chính
Dòng thông tin
Sơ đồ 1.7. Mô hình chuỗi cung thực phẩm trong nông nghiệp
Nguồn: ARD, 2008
Dòng tài chính: dòng này lưu thông theo hướng ngược lại với dòng sản phẩm vật chất. Đó là quá trình chi trả, các khoản tin dụng phải thu và phải trả, các khoản
cho vay, lịch thanh toán trả nợ… Việc tối ưu hóa dòng tài chính được thực hiện mang tính riêng biệt trong mỗi liên kết của CCSPTN, hiếm khi một cách tổng thể. Việc tối ưu hóa dòng tài chính này sẽ làm cho nó cải thiện được lợi ích của mỗi tác nhân, nâng cao hiệu quả hoạt động của mỗi bộ phận và của toàn bộ CCSPTN [86]. Dòng tài chính (dòng tiền) được đưa vào chuỗi bởi duy nhất người tiêu dùng khi họ đã nhận được sản phẩm tôm nuôi hoặc đầy đủ chứng từ hợp lệ. Có thể thấy chính lợi nhuận đã liên kết các đơn vị kinh doanh lại với nhau. Chuỗi cung tạo nên chuỗi giá trị trong đó các tác nhân có cơ hội chia sẻ dòng tiền ở mức độ khác nhau, tùy vào vai trò và vị thế của mỗi tác nhân [40] [91].
Quá trình trao đổi thông tin giữa các tác nhân tạo nên dòng thông tin trong CCSPTN. Dòng này có tính hai chiều, trước tiên, là dòng hạ nguồn từ phía khách hàng về phía trước chuỗi; mang những thông tin thị trường, đặc điểm sản phẩm, nhu cầu khách hàng, và những ý kiến phản hồi của khách hàng sau khi sử dụng sản phẩm tôm nuôi. Thứ hai, là dòng thượng nguồn từ phía các nhà cung cấp; được nhận và xử lý thông qua bộ phận thu mua. Các thông tin phản hồi này phản ánh tình hình hoạt động của thị trường nguyên liệu. Nó được xử lý rất kỹ trước khi chuyển tới khách hàng. Mức độ chia sẻ thông tin phụ thuộc đối tác được chọn lựa để chia sẻ, dạng thông tin và chất lượng thông tin. Có nhiều dạng thông tin trong chuỗi cung; dạng thông tin chiến lược, chiến thuật, vận hành... Những thông tin được chia sẻ thường mang lại lợi ích cho các thành viên trong CCSPTN; chia sẻ thông tin về vận chuyển hàng hóa sẽ giúp các tổ chức hậu cần cải thiện mức độ phục vụ khách hàng, chia sẻ thông tin sản xuất và bán hàng làm giảm mức tồn kho. Giá trị của thông tin là kịp thời và chính xác, nó phụ thuộc vào lợi ích mà các tác nhân có thể nhận được từ thông tin đó. Giá trị không còn nếu cơ hội đã qua. Việc xử lý chậm hoặc trì hoãn chuyển giao thông tin theo dòng ngược càng làm ảnh hưởng trầm trọng đến tốc độ đáp ứng của dòng sản phẩm tôm nuôi theo chiều xuôi tới khách hàng, do vậy ảnh hưởng đến dòng tiền phía sau. Trong chuỗi cung này, dòng thông tin là dòng đi trước về mặt thời gian, nó xuyên suốt mọi quá trình, ngay sau khi cả dòng sản phẩm tôm nuôi và dòng tiền đã thực hiện hoàn tất. Vì vậy, muốn quản lý được CCSPTN thì phải quản lý được dòng thông tin [28].
Các mối quan hệ trong chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi
Cạnh Hợp tác phi tranh chính thức Giữ khoảng Không cách chỉ rõ Không đáng Kể Nhiều Khác biệt |
Hợp đồng Liên minh chiến lược Hợp đồng trung hạn Nhiều Ít Hòa hợp |
Đầu tư tối thiểu |
Liên doanh Tích hợp dọc Hợp đồng dài hạn Đầy đủ Không đáng kể Chia sẻ |
Thuật ngữ “quan hệ” (relation) hay “mối quan hệ” (relationship), theo tác giả Backstrand được sử dụng với nghĩa rộng hơn để chỉ ra bất kỳ liên kết nào giữa các tác nhân có liên quan hay không liên quan đến các đối thủ đều là sự tương tác cạnh tranh hay hợp tác, do vậy mối quan hệ luôn tồn tại [79]. Trong CCSPTN, mỗi tác nhân giữ mối quan hệ với những tác nhân khác theo chiều ngang và cả chiều dọc. Điều quan trọng là phải thiết lập các mối quan hệ giữa các tác nhân trong chuỗi và gắn nó vào mục tiêu chung của tổ chức [40]. Các tác nhân trong CCSPTN nhận thức rõ hơn rằng họ có cùng những mục tiêu chung - đó chính là thỏa mãn khách hàng cuối cùng. Vì thế họ không nên cạnh tranh với nhau và nên hợp tác để thỏa mãn khách hàng cuối cùng [104]. Điều này, nghĩa là đối thủ cạnh tranh không phải là các doanh nghiệp hoặc tổ chức khác trong chuỗi cung mà chính là các doanh nghiệp ở chuỗi cung khác hay nói cách khác, các chuỗi cung cạnh tranh với nhau chứ không phải là các doanh nghiệp - mỗi tác nhân trong từng mắt xích [91].
Mối quan hệ
Chia sẻ thông tin
Kinh doanh với đối tác cạnh tranh
Văn hóa
Sơ đồ 1.8. Chuỗi các quan hệ
Nguồn: Khoa Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng, 2007
Quan hệ hợp tác theo chiều dọc là quan hệ giữa các tác nhân ở các khâu khác nhau trong chuỗi cung nhằm chia sẻ trách nhiệm, nguồn lực, thông tin, tạo ra sự thống nhất trong kế hoạch hoạt động nhằm tối đa hóa giá trị gia tăng của chuỗi và thúc đẩy nhanh tiến độ đáp ứng nhu cầu khách hàng cuối cùng, nâng cao năng lực trạnh tranh. Quan hệ hợp tác theo chiều ngang là quan hệ giữa các tác nhân trong cùng một khâu của chuỗi cung nhằm chia sẻ nguồn lực bổ sung để hoàn thiện sản
phẩm và hạ thấp chi phí [67] [81] [108]. Để xác định các mức độ quan hệ giữa các tác nhân trong CCSPTN ta dựa vào thang đo mức độ tích hợp. Theo thang đo này có thể xác định các mức độ quan hệ giữa các tác nhân trong chuỗi các quan hệ, cực bên trái là mức độ tích hợp rất thấp, chỉ là mối quan hệ thị trường, mang tính cạnh tranh, cực bên phải là các tổ chức tích hợp dọc hoàn toàn theo chức năng, các mối quan hệ được kiểm soát chặt chẽ [40] [90] [104].
Sơ đồ 1.8, chỉ rõ các mức độ quan hệ giữa các tác nhân trong chuỗi cung. Tiến dần về bên trái các mối quan hệ không chặt chẽ, các đối tác không tin tưởng nhau, quan hệ hợp đồng ngắn hạn, luôn giữ khoảng cách, thông tin chia sẻ không đáng kể, kinh doanh với đối thủ cạnh tranh, có sự khác biệt lớn về văn hóa. Ngược lại, tiến dần về bên phải quan hệ giữa các tác nhân là quan hệ hợp đồng dài hạn, các đối tác tin tưởng nhau, thông tin được chia sẻ đầy đủ, quan hệ cạnh tranh hầu như không có, hòa đồng về mặt văn hóa, cùng nhau chia sẻ lợi nhuận.
Trên cơ sở mô hình phân tích hoạt động tạo giá trị trong chuỗi cung nông nghiệp của tác giả Martin, Sandra; Jagadish, Ayyamani(2005) theo quan điểm giá trị trong khái niệm chuỗi giá trị của Porter và Mô hình phân tích chuỗi cung thực phẩm trong nông nghiệp của các chuyên gia Ngân hàng thế giới (2008), luận án mô tả nội dung mô hình CCSPTN như Sơ đồ 1.9.
Sơ đồ 1.9. Mô hình chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi
Nguồn: [59] [dẫn theo 56] và mô tả của tác giả
Mô hình này cho thấy, dòng sản phẩm xuất khẩu trong CCSPTN chỉ giới hạn nghiên cứu ở các tác nhân trong nước, không nghiên cứu phần còn lại của thế giới.
Quá trình tạo giá trị là quá trình quan trọng nhất là những hoạt động gắn liền với những chức năng cụ thể của từng tác nhân trong mỗi mắt xích. Quá trình này luôn gắn chặt với dòng sản phẩm vật chất, dòng tài chính và dòng thông tin trong chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi, cũng như các dịch vụ hỗ trợ về hậu cần, tài chính và kỹ thuật của các tổ chức tư nhân và công cộng.
1.1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của CCSPTN
Trên cơ sở lý luận chung về chuỗi cung và CCSPTN, sử dụng phương pháp tổng hợp ý kiến chuyên gia, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến CCSPTN và nghiên cứu thực địa của tác giả. Xác định một số nhóm nhân tố quyết định đến quá trình hoạt động của CCSPTN như nhóm nhân tố điều kiện tự nhiên, nhóm nhân tố thuộc về chủ thể nuôi tôm, nhóm nhân tố về thị trường, chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước, quản lý chuỗi cung và nhóm nhân tố về cơ sở hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ.
(1) Nhóm nhân tố về điều kiện tự nhiên
Tôm nuôi là động vật thủy sinh, quá trình sinh trưởng và phát triển phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Thủy vực (ao nuôi) và các yếu tố tự nhiên khác chính là điều kiện tự nhiên cho NTTS nói chung và nuôi tôm nói riêng, điều kiện tự nhiên phù hợp và có chất lượng tốt, tôm sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất cao. Chất lượng của thủy vực phụ thuộc vào sự phong phú và đa đạng của hệ sinh thái. Có thể nói, thủy vực vừa là môi trường sống, vừa là nguồn cung cấp thức ăn, dưỡng khí cho tôm. Các yếu tố về nguồn nước, độ PH đất đai, độ PH nước, nhiệt độ và môi trường nuôi sẽ ảnh hưởng đến quá trình sản xuất giống, quá trình nuôi tôm, chất lượng SPTN trong tiêu dùng sản phẩm tươi sống, cũng như chất lượng của sản phẩm chế biến. Sức sản xuất sinh học của đất đai, mặt nước phụ thuộc chủ yếu vào độ phì nhiêu của đất đáy và vùng bờ. Vì vậy, cải tạo môi trường điều kiện tự nhiên trước hết là cải tạo đáy và vùng bờ của ao nuôi nhằm nâng cao năng suất. Việc khai thác sử dụng đất đai mặt nước ven biển để nuôi tôm và sự phát triển của các ngành kinh tế khác (chẳng hạn như ngành du lịch) cũng như những diễn biến bất thường của thiên tai, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, biến đổi khí hậu….có ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của CCSPTN [4] [20] [29].