Cấu Trúc Chuỗi Cung Và Các Tác Nhân Tham Gia Chuỗi Cung

Theo Christoper (2005), “Chuỗi cung là một mạng lưới của các tổ chức có liên quan, thông qua các mối liên kết dòng thượng nguồn và hạ nguồn, trong các quá trình và hoạt động khác nhau nhằm tạo ra giá trị trong từng sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng” [91].

“Chuỗi cung là một hệ thống bao gồm các tổ chức, con người, công nghệ, hoạt động, luồng thông tin trao đổi giữa các tổ chức về biến động thị trường, năng lực sản suất ...và các nguồn lực khác” [41].

Như vậy, có thể thấy rằng chuỗi cung thực chất là sự liên kết chuỗi các hoạt động của những quá trình cung cấp hàng hóa từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng. Từ các định nghĩa trên, chúng ta có thể nhận thấy nội hàm của khái niệm về chuỗi cung gồm 4 nội dung:

- Thành phần của chuỗi cung bao gồm hệ thống các tổ chức, con người tham gia trực tiếp hay gián tiếp trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, là các mắt xích đóng vai trò làm cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Các tổ chức ở đây chính là các nhà cung cấp, các doanh nghiệp sản xuất, các nhà phân phối, bán lẻ và khách hàng;

- Mối quan hệ đồng thời của các dòng chảy bên trong chuỗi cung gồm dòng thông tin, dòng sản phẩm hay dịch vụ, dòng tài chính và dòng chuyển quyền sở hữu giữa các tác nhân;

- Doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến việc đưa ra thị trường sản phẩm hay dịch vụ gì, giá bao nhiêu mà còn quan tâm đến việc sản phẩm hay dịch vụ được đưa ra thị trường bằng cách nào;

- Quá trình hoạt động của từng tác nhân là nhằm tạo ra giá trị trong từng sản phẩm và dịch vụ cho khách hàng.

Như vậy, chúng ta có thể hiểu chuỗi cung là “Hệ thống các tổ chức, con người, công nghệ, hoạt động, thông tin và các nguồn lực liên quan trong việc đưa sản phẩm hay dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Các hoạt động của chuỗi cung là quá trình tạo giá trị nhằm chuyển nguồn tài nguyên tự nhiên, nguyên liệu thô và các thành phần thành những sản phẩm hoàn chỉnh và tổ chức đưa sản phẩm đến người tiêu dùng cuối cùng”.

Để chuỗi cung sản phẩm của doanh nghiệp hay một ngành hàng hoạt động có hiệu quả thì đòi hỏi phải có quản lý chuỗi cung, nó là một phần nội dung không thể thiếu trong quá trình tổ chức thực hiện của bất kỳ chuỗi cung nào.

“Quản lý chuỗi cung là quy hoạch tổng hợp, thực hiện, phối hợp và kiểm soát của tất cả các quy trình kinh doanh và các hoạt động cần thiết để sản xuất và cung cấp, một cách hiệu quả nhất có thể, các sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường” [66].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 272 trang tài liệu này.

Theo Lee (1995) và đồng sự “Quản lý chuỗi cung như là việc tích hợp các hoạt động xảy ra ở các cơ sở của mạng lưới nhằm tạo ra nguyên vật liệu, chuyển dịch chúng vào sản phẩm trung gian và sau đó đến sản phẩm hoàn thành cuối cùng, và phân phối sản phẩm đến khách hàng thông qua hệ thống phân phối” [84].

Theo Christopher (2005), “Quản lý chuỗi cung là quản lý các mối quan hệ nhiều chiều giữa các nhà cung cấp và khách hàng nhằm phân phối đến khách hàng giá trị cao hơn với chi phí thấp hơn trong toàn bộ chuỗi cung” [91].

Nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam - 4

Mục tiêu của quản lý chuỗi cung là tối ưu hóa giá trị sản phẩm cho khách hàng hay nói cách khác là tối đa hóa giá trị tạo ra cho toàn hệ thống [28]. Như vậy, quản lý chuỗi cung có thể hiểu một cách chung nhất là “Tập hợp các phương thức sử dụng để phối hợp hoạt động của hệ thống các tổ chức, con người, công nghệ, thông tin và các nguồn lực liên quan trong việc đưa sản phẩm hay dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Các hoạt động của chuỗi cung chuyển nguồn tài nguyên tự nhiên, nguyên liệu thô và các thành phần thành những sản phẩm hoàn chỉnh và tổ chức đưa sản phẩm đến người tiêu dùng cuối cùng với mục đích tối đa hóa giá trị tạo ra cho toàn chuỗi”.

Tóm lại, định nghĩa quản lý chuỗi cung ở trên đề cập đến việc cân nhắc tất cả các thành tố của chuỗi cung; những tác động của nó đến chi phí và vai trò trong việc sản xuất sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng; nó đưa ra cách tiếp cận hệ thống để nắm bắt và quản lý các hoạt động từ nhà cung cấp đến các cơ sở sản xuất tới các trung gian phân phối đến người tiêu dùng cuối cùng một cách tối ưu nhất. Vì vậy, trong phân tích chuỗi cung phải xét đến người cung cấp của người cung cấp, khách hàng của khách hàng là hết sức cần thiết bởi vì họ tác động đến kết quả và hiệu quả kinh tế của chuỗi cung [28].

1.1.1.2. Cấu trúc chuỗi cung và các tác nhân tham gia chuỗi cung

Trong hình thức đơn giản nhất, một chuỗi cung bao gồm một công ty, các nhà cung cấp và khách hàng của công ty đó. Đây là nhóm đối tượng cơ bản của một chuỗi cung đơn giản [96, 23].

Nhà cung cấp

Công ty

Khách hàng


Sơ đồ 1.1. Chuỗi cung đơn giản

Nguồn: Micheal Hugos, 2003

Với chuỗi cung mở rộng, ngoài 3 thành viên trên còn có thêm 3 nhóm thành viên khác đó là nhà cung cấp của các nhà cung cấp, khách hàng của các khách hàng, và toàn bộ các công ty cung cấp dịch vụ cho các công ty trong chuỗi cung. Các công ty cung cấp dịch vụ này sẽ cung cấp dịch vụ hậu cần, tài chính, tìm hiểu thị trường, thiết kế sản phẩm và công nghệ thông tin cho các công ty khác nhau trong chuỗi.

Nhà cung cấp dịch vụ

Các chuỗi cung theo Sơ đồ 1.2, đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa các doanh nghiệp thực hiện nhiều chức năng khác nhau trong chuỗi cung. Các doanh nghiệp này chính là nhà sản xuất, nhà phân phối hay nhà bán buôn, bán lẻ hàng hóa và các công ty hoặc cá nhân đóng vai trò là khách hàng - những người tiêu dùng thực sự. Các doanh nghiệp này được hỗ trợ bởi các nhà cung cấp các dịch vụ thiết yếu.


Nhà cung cấp

Nhà cung cấp

Công ty

Khách hàng

Khách hàng


Sơ đồ 1.2. Chuỗi cung mở rộng

Nguồn: Micheal Hugos, 2003

Nhà sản xuất là những đơn vị trực tiếp làm ra sản phẩm, nó có thể chuyên sản xuất nguyên vật liệu thô cũng như sản xuất những sản phẩm hoàn chỉnh. Nhà sản xuất nguyên liệu thô là các công ty khai khoáng, khai thác dầu và khí đốt, các nông trại chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản.

Nhà phân phối là các doanh nghiệp mua một khối lượng lớn hàng hóa lưu kho từ nhà sản xuất và phân phối sỉ các dòng sản phẩm đến khách hàng. Nhà phân phối giúp nhà sản xuất tránh được những tác động ảnh hưởng tiêu cực từ thị trường bằng cách lưu trữ hàng hóa và đồng thời tiến hành nhiều công tác bán hàng nhằm mục đích tìm kiếm và phục vụ khách hàng. Cùng với việc mua sản phẩm, thúc đẩy công tác bán hàng và tăng doanh thu, nhà phân phối còn đảm nhận một chức năng khác là quản lý hệ thống hàng hóa lưu kho, điều hành kho hàng, vận chuyển hàng hóa cũng như đảm nhận thêm công tác hỗ trợ khách hàng và cung cấp dịch vụ hậu mãi; môi giới sản phẩm của nhà sản xuất với khách hàng mà họ không bao giờ sở hữu nó. Trong cả hai trường hợp này, nhà phân phối đóng vai trò là một đại lý liên tục nắm bắt thị hiếu, nhu cầu của khách hàng rồi đáp ứng họ với những sản phẩm sẵn có [71].

Nhà bán lẻ trữ hàng hóa trong kho và bán với số lượng nhỏ hơn cho khách hàng nói chung. Họ luôn theo dõi những thông tin về sở thích và nhu cầu của khách hàng mà mình phục vụ, trên cơ sở kết hợp giá cả hợp lý, sản phẩm đa dạng, phong phú, phục vụ tận tình chu đáo nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng đến với sản phẩm của mình.

Khách hàng hay người tiêu dùng là bất kỳ một cá nhân hay tổ chức nào thực hiện hành vi mua và sử dụng hàng hóa; họ có thể mua một sản phẩm và sau đó bán chúng cho những khách hàng khác hoặc có thể là người sử dụng cuối cùng của một sản phẩm, mua hàng với mục đích chỉ để sử dụng [71].

Nhà cung cấp dịch vụ là những cá nhân hay tổ chức cung cấp dịch vụ cho các tác nhân khác trong chuỗi. Nhà cung cấp dịch vụ chỉ tập trung vào một công việc đặc thù mà các tác nhân trong chuỗi đòi hỏi và chuyên sâu vào những kỹ năng đặc biệt để phục vụ cho công việc đó. Nhờ vậy, họ thực hiện những dịch vụ này hiệu quả hơn nhiều so với nhà cung cấp, nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ hay cả người tiêu dùng tự đảm nhận với mức giá phải chăng. Đó là nhưng công ty vận tải, dịch vụ lưu kho hàng hóa, dịch vụ tài chính, công nghệ thông tin... [96,23-27].

Mỗi sản phẩm có nhiều chuỗi cung, mỗi chuỗi cung đều nhằm đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng nhanh nhất và giữa các chuỗi cung có sự cạnh tranh với nhau [56] [91]. Trong thực tế, đa số các doanh nghiệp được cung cấp nguyên, vật liệu từ nhiều nhà cung cấp khác nhau và phân phối sản phẩm thông qua một hay

nhiều khách hàng khác nhau tạo nên cấu trúc mạng lưới mỗi chuỗi cung sản phẩm cụ thể khác nhau, chiều dài và độ rộng chuỗi cung phụ thuộc và chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố như yêu cầu của khách hàng, xu hướng chung của nền kinh tế, sự sẵn sàng của dịch vụ hậu cần, yếu tố văn hóa, tốc độ đổi mới, sự cạnh tranh, thị trường và sự sắp xếp về tài chính [28].

Nhà CC

Người TD

Nhà CC Nhà BL

Nhà CC

Nhà SX

Người TD

Người TD

Nhà CC

Nhà BL

Nhà SX

Người TD

Nhà CC

Nhà CC

Nhà BL

Chiều dài của chuỗi được tính bằng số lượng các cấp bậc (tier) dọc theo chiều dài chuỗi. Hình ảnh đơn giản nhất của chuỗi cung là khi có một sản phẩm dịch chuyển qua một loạt các tác nhân và mỗi tác nhân tạo thêm một phần giá trị cho sản phẩm. Lấy một tác nhân nào đó trong chuỗi làm trung tâm, nếu xét các hoạt động trước nó - dịch chuyển nguyên vật liệu đến - được gọi là thượng nguồn (Upstream), những tác nhân phía sau được gọi là hạ nguồn (Downtream). Độ rộng được tính bằng số lượng các tác nhân tại mỗi cấp bậc chức năng, hình thành các tuyến đường để nguyên vật liệu, sản phẩm lưu thông xuyên suốt [28] [79] [82] (xem phụ lục 1, Sơ đồ 1).


Sơ đồ 1.3. Mạng lưới chuỗi cung tổng thể

Nguồn: FAO, 2007

Như đã đề cập ở trên, chuỗi cung hiếm khi tồn tại mà không là một phần của mạng lưới chuỗi cung tổng thể. Sơ đồ 1.3, mô tả mạng lưới chuỗi cung tổng thể hoàn chỉnh, mỗi doanh nghiệp đặt trong một lớp mạng và thuộc về ít nhất một chuỗi cung. Những gì xảy ra trong giao dịch giữa hai doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào hai đối tác liên quan mà còn trên các kết quả của các mối quan hệ khác trong chuỗi và mạng lưới chuỗi cung tổng thể. Các tổ chức có thể đóng vai trò khác nhau trong các thiết lập chuỗi khác nhau, có thể là hợp tác hoặc là đối thủ cạnh tranh của nhau [66].

1.1.1.3. Bản chất kinh tế và nhân tố ảnh hưởng đến chuỗi cung

Từ cách thức tiếp cận nghiên cứu chuỗi cung ở trên, ta có thể nhận thức được bản chất kinh tế của chuỗi cung như sau:

Trước hết, để đáp ứng yêu cầu của thị trường, bất kỳ chuỗi cung nào mà doanh nghiệp tham gia phải đưa ra quyết định với tư cách cá nhân và tập thể liên quan đến hoạt động của mình trong năm yếu tố dẫn dắt: sản xuất, hàng tồn kho, địa điểm, vận chuyển, thông tin. Mỗi yếu tố phải trả lời những yêu cầu đặt ra từ thị trường. Chẳng hạn, đối với sản xuất, thì sản xuất những sản phẩm gì? Số lượng bao nhiêu? Và vào thời điểm nào? Đối với tồn kho, nên dự trữ loại hàng hóa nào trong từng giai đoạn của chuỗi cung? Hay với thông tin, nên thu thập những thông tin gì? Nên chia sẻ bao nhiêu thông tin? Thông tin càng nhanh và càng chính xác sẽ giúp cho các thành viên trong chuỗi đưa ra quyết định phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Tổng hợp tất cả các quyết định trên, doanh nghiệp sẽ xác định được năng suất và hiệu quả của chuỗi cung trong doanh nghiệp. Khả năng đáp ứng nhu cầu và cách thức cạnh tranh của doanh nghiệp đều phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả của chuỗi cung [23][60] [100].

Thứ hai, về mặt lý thuyết, chuỗi cung hoạt động như một đơn vị cạnh tranh riêng biệt và cố hữu, thực hiện việc mà nhiều doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp tích hợp dọc cố gắng đạt được và đã thất bại trong việc thực hiện mục tiêu này. Điểm khác biệt chính là các doanh nghiệp trong chuỗi cung hoàn toàn tự do trong việc quyết định thâm nhập hoặc rời khỏi mối quan hệ chuỗi nếu mối quan hệ này không còn mang lại lợi ích cho họ. Đó chính là tổ chức thị trường tự do nhằm giúp chuỗi cung vận hành các khối liên kết dọc một cách có hiệu quả hơn. Vì vậy, chuỗi cung vận động và linh hoạt [28].

Thứ ba, các sản phẩm đến tay người tiêu dùng, phần lớn thông qua các khách hàng trung gian trong chuỗi cung, có thể một vài trung gian hoặc có nhiều trung gian và thậm chí chuỗi cung có cấu trúc rất phực tạp. Chúng ta nhận thấy chỉ có một nguồn tạo ra lợi nhuận duy nhất cho toàn chuỗi, đó là khách hàng cuối cùng. Khi các doanh nghiệp riêng lẻ trong chuỗi cung ra các quyết định kinh doanh mà không quan tâm đến các thành viên khác trong chuỗi, điều này dẫn đến giá bán cho khách hàng cuối cùng là rất cao, mức phục vụ chuỗi cung thấp và điều này làm cho nhu cầu khách hàng tiêu dùng cuối cùng thấp. Vì vậy, đòi hỏi phải liên kết giữa các tác nhân để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi ích cho người tiêu dùng [66] [85].

Thư tư, chuỗi cung là năng động và liên quan đến dòng thông tin, sản phẩm vật chất và tài chính nhất định giữa các giai đoạn khác nhau. Ba dòng chảy trên sẽ luân chuyển trong toàn chuỗi cung. Khách hàng là thành tố tiên quyết của chuỗi cung, vì mục đích then chốt cho sự tồn tại của bất kỳ chuỗi cung nào là để thỏa mãn nhu cầu khách hàng trong tiến trình tạo ra lợi nhuận cho chính nó [28] [66]. Sự phối hợp chặt chẽ giữa dòng sản phẩm, dòng thông tin và dòng tài chính là vô cùng quan trọng trong chuỗi cung. Đặc biệt là vai trò cầu nối của dòng thông tin, bởi nó ảnh hưởng lớn tới việc đáp ứng các nhu cầu khách hàng đúng lúc. Tại một cửa hàng bán lẻ, khách hàng sẽ được cung cấp các sản phẩm, giá cả và đầy đủ về thông tin (sản phẩm, nhà sản xuất, khuyến mãi...) và ngược lại khách hàng sẽ thanh toán tiền sản phẩm mà họ mua. Nhà bán lẻ sẽ gửi thông tin liên quan đến việc bán hàng tới các nhà phân phối sau khi nhận được hàng. Nhà phân phối cũng sẽ trao đổi cho nhà bán lẻ những thông tin về sản phẩm, giá cả... Vòng tuần hoàn bắt đầu với việc nhận những đơn đặt hàng của khách hàng và kết thúc khi khách hàng thanh toán đơn hàng của họ. Cứ như vậy, dòng sản phẩm, tài chính và thông tin được luân chuyển trong chuỗi cung (phụ lục 1, Sơ đồ 2) [85] [106].

Thứ năm, bất kỳ chuỗi cung nào cũng cần cân nhắc đến tính đáp ứng nhanh và hiệu quả. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay nếu chỉ tập trung vào tính hiệu quả mà bỏ qua tính đáp ứng nhanh các nhu cầu của khách hàng thì các công ty, các chuỗi cung không thể thành công. Cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, các công ty ngày càng chú trọng chuyên môn hóa vào các sản phẩm mà nó thực hiện tốt nhất để cạnh tranh được với các đối thủ khác. Chính điều này đã thúc đẩy các công ty khác nhau liên kết lại với nhau cùng thực hiện các hoạt động trong chuỗi cung như sự liên kết của các công ty chịu trách nhiệm sản xuất với các công ty vận chuyển, bán buôn, bán lẻ. Theo đó, mỗi công ty có thể theo kịp tốc độ thay đổi và học được những kỹ năng mới cần thiết để cạnh tranh [58].

Thứ sáu, tác động Roi da (Bullwhip), một trong những tác động phổ biến nhất trong chuỗi cung là hiện tượng có tên gọi “Roi da”. Đó là hiện tượng khi có thay đổi nhỏ về nhu cầu sản phẩm từ khách hàng, điều này sẽ chuyển thành những thay đổi lớn hơn về nhu cầu ở các công ty cuối chuỗi cung. Dao động hay tác động bắt đầu khi nhu cầu thị trường lớn mạnh tạo ra sự thiếu hụt sản phẩm. Các nhà sản xuất và phân phối

gia tăng sản xuất và mức tồn kho để đáp ứng nhu cầu cung cấp sản phẩm lớn hơn mức nhu cầu đáp ứng. Nhà sản xuất và phân phối không nhận ra việc cung cấp đang lớn hơn nhu cầu nên tiếp tục thiết lập việc cung cấp sản phẩm. Và kết quả lượng sản phẩm dư thừa quá lớn khi công ty nhận ra điều này. Nhà phân phối gặp khó khăn trong hàng tồn kho và làm giảm giá trị sản phẩm trên thị trường [85] (phụ lục 1, Đồ thị 1).

Để giải quyết tác động “Roi da” thì trước hết phải loại bỏ tất cả thời gian chậm trễ trong việc cung cấp hàng hóa và các luồng thông tin từ các chuỗi cung, điều này có thể đạt được bằng cách lập kế hoạch tốt hơn và sử dụng tốt hơn công nghệ thông tin, cải thiện dịch vụ hậu cần. Để đạt được mục tiêu trên, cách tốt nhất là chia sẻ dữ liệu giữa các công ty trong chuỗi cung. Nhu cầu đó có thể là những con số về mức tiêu thụ, dự đoán mức tiêu thụ, về những quyết định trong tất cả các công ty, các thành viên của chuỗi cung. Bởi sự thành công của từng thành viên, của một phần chuỗi cung sẽ góp phần tạo nên thành công của cả chuỗi cung. Đó như một phản ứng dây chuyền [66] [99].

Tóm lại, trên đây là những nội dung cốt lõi thuộc về bản chất kinh tế, cũng là nhân tố ảnh hưởng đến chuỗi cung; nó là nền tảng, cơ sở để nghiên cứu chuỗi cung của bất kỳ sản phẩm nào. Tuy nhiên, mỗi chuỗi cung sản phẩm cụ thể do đặc điểm của quá trình tổ chức sản xuất chi phối tạo nên những có cấu trúc và những quá trình hoạt động của chuỗi cung sản phẩm cụ thể khác nhau.

1.1.1.4. Chuỗi cung và chuỗi giá trị

Thuật ngữ chuỗi giá trị (value chain) được sử dụng ban đầu chỉ nhằm vào các hoạt động của một doanh nghiệp, vì vậy chuỗi giá trị được hiểu là một loạt các hoạt động trong doanh nghiệp để SX ra một sản phẩm nhất định và phân phối cho khách hàng. Các hoạt động này bao gồm từ thiết kế sản phẩm, mua vật tư đầu vào, SX, tiếp thị và phân phối. Những hoạt động này tạo thành một chuỗi kết nối người sản xuất với người tiêu dùng và mỗi hoạt động tạo ra, bổ sung giá trị cho sản phẩm cuối cùng [41].

Theo Porter, khái niệm chuỗi giá trị được sử dụng nhằm giúp các doanh nghiệp có thể tìm ra các lợi thế cạnh tranh (thực tế và tìềm năng) của mình. Ông cho rằng, một công ty có thể cung cấp cho khách hàng một sản phẩm hay một dịch vụ có giá trị tương đương với đối thủ cạnh tranh của mình với chi phí thấp hơn hoặc chi phí cao hơn nhưng có những đặc tính mà khách hàng mong muốn. Porter đã lập luận rằng, nếu nhìn

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/11/2022