Ngoài các yếu tố chính trên còn nhiều yếu tố khác như khả năng quảng cáo, marketing, thương hiệu.
Chất lượng sản phẩm, dịch vụ có ảnh hưởng đến NLCT của doanh nghiệp được nghiên cứu bởi các tác giả Lewis và Booms (1983); Berry, Zeithaml và Parasuraman (1990); Barkema (1993); Levins (2000); Schweikhardt (2000); Babcock (2002); Dwyer và Kim (2003); Berkenveld và cộng sự (2005); Akbaba (2006); Chang và cộng sự (2007); Lee và King (2009); Tsai, Song và Wong (2009); Mechinda và cộng sự (2010); Williams và Hare (2012); Review, Assistant, và Dubrovnik (2013). Trên cơ sở đó giả thuyết H2 được đề xuất như sau:
H2: Chất lượng sản phẩm, dịch vụ ảnh hưởng tích cực đến NLCT của doanh nghiệp du lịch Bến Tre.
2.3.1.3 Năng lực marketing
Theo Kotler và cộng sự (2006), marketing là hoạt động nhằm làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Vì vậy, năng lực marketing của doanh nghiệp được thể hiện thông qua việc liên tục theo dõi và đáp ứng được với những thay đổi của khách hàng cùng với đối thủ cạnh tranh (Kotler và cộng sự, 2006; Homburg và cộng sự, 2007). Hiện nay, hoạt động marketing đã chuyển hướng từ mô hình marketing hỗn hợp sang mô hình marketing mối quan hệ. Điều này làm chất lượng mối quan hệ giữa các thành viên trong quá trình trao đổi kinh doanh như: quan hệ giữa khách hàng và thương hiệu; giữa doanh nghiệp và nhà cung cấp; giữa doanh nghiệp và kênh phân phối đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá năng lực marketing của doanh nghiệp. Theo Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang (2011) thì năng lực marketing được xây dựng dựa trên bốn thành phần cơ bản, (1) Đáp ứng khách hàng; (2) Phản ứng với đối thủ cạnh tranh; (3) Thích ứng với môi trường vĩ mô; (4) Chất lượng mối quan hệ với đối tác. Hai nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra những thành phần trên đều đạt tiêu chuẩn VRIN, tức đều là những yếu tố tạo thành năng lực động cho doanh nghiệp. Các kết quả nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra rằng, việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, thích ứng với đối thủ cạnh tranh, đáp ứng với thị trường có quan hệ với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp (Nguyen và Barrett, 2006; 2007; Nguyen và cộng sự 2006; Nguyen, 2007).
Năng lực marketing giúp doanh nghiệp thực hiện các chương trình marketing một cách hiệu quả hơn. Chính năng lực này sẽ giúp doanh nghiệp nắm bắt những thay đổi trong nhu cầu của khách hàng về sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp mình cung cấp, từ đó có cơ sở đưa ra những sản phẩm dịch vụ mới phù hợp hơn. Vì vậy, năng lực này gắn liền với năng lực sáng tạo của doanh nghiệp (Benedetto và cộng sự, 2008).
Hiện nay, nhiều nghiên cứu cũng cho thấy định hướng kinh doanh có mối quan hệ chặt chẽ với năng lực marketing của doanh nghiệp (Keh và cộng sự, 2007), doanh nghiệp có định hướng kinh doanh cao là doanh nghiệp luôn theo dõi thị trường để trở thành những nhà tiên phong trong phục vụ khách hàng, phản ứng với đối thủ cạnh tranh và nắm bắt được những thay đổi của môi trường (Jayachandran và cộng sự, 2004; Alvanez và Busenitz, 2001). Trong lĩnh vực du lịch, hoạt động marketing đóng một vai trò quan trọng, nó giúp doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, phản ứng với đối thủ cạnh tranh, thích ứng với biến đổi của môi trường, cải thiện chất lượng mối quan hệ với khách hàng và đối tác.
Năng lực marketing có ảnh hưởng đến NLCT của doanh nghiệp được nghiên cứu bởi các tác giả Berkenveld và cộng sự (2005); Kotler và cộng sự (2006); Chang và cộng sự (2007); Homburg và cộng sự (2007); Lee và King (2009); Nguyễn Cao Trí (2011); Trần Thế Hoàng (2011); Trần Bảo An và cộng sự (2012); Trần Hữu Ái (2013). Trên cơ sở đó giả thuyết H3 được đề xuất như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Quan Điểm Đề Xuất Của Tác Giả Về Năng Lực Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp Du Lịch
- Mô Hình Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Nlct Của Khách Sạn Nhỏ Tại Jamaica
- Tổng Hợp Các Nghiên Cứu Về Năng Lực Cạnh Tranh
- Mô Hình Nghiên Cứu Đề Xuất Và Các Giả Thuyết
- Nghiên Cứu Định Tính Điều Chỉnh Mô Hình Nghiên Cứu
- Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp du lịch Bến Tre - 12
Xem toàn bộ 308 trang tài liệu này.
H3: Năng lực marketing có ảnh hưởng tích cực đến NLCT của doanh nghiệp du lịch
Bến Tre.
2.3.1.4 Năng lực tổ chức, quản lý
Theo Porter (1980), năng lực tổ chức, quản lý trong doanh nghiệp được coi là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói chung cũng như NLCT của doanh nghiệp nói riêng. Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp được thể hiện ở các mặt sau: (1) Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý được thể hiện qua trình độ học vấn, kiến thức liên quan tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (từ pháp luật, thị trường, ngành hàng, đến kiến thức về xã hội, nhân văn); (2) Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp còn được thể hiện ở việc sắp xếp, tổ chức bộ máy quản lý và phân định chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận. Việc hình thành bộ máy quản lý doanh nghiệp theo hướng gọn nhẹ và hiệu quả cao có ý nghĩa quan trọng, không chỉ bảo đảm ra quyết định nhanh chóng, chính xác mà còn
làm giảm tương đối chi phí quản lý của doanh nghiệp. Nhờ đó, NLCT của doanh nghiệp được nâng cao; (3) Năng lực hoạch định (hoạch định chiến lược, kế hoạch, điều hành tác nghiệp) có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động, ảnh hưởng lớn tới NLCT của doanh nghiệp. Theo Michael Porter, năng lực quản lý còn thể hiện ở tốc độ thay thế nhân sự trước các biến đổi.
Theo tác giả Ho (2005), quản trị trong doanh nghiệp được xác định là việc tổ chức bộ máy hoạt động cho doanh nghiệp (hội đồng quản trị, ban giám đốc và các phòng ban) và các chức năng liên quan đến vai trò của quá trình quản lý, thực hiện các chiến lược, các mục tiêu đảm bảo đạt hiệu suất cao.
Theo các tác giả Preble, Reichel và Hoffman (2000); Hwang và Chang (2003); Pine và Phillips (2005), khả năng tổ chức, liên kết đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược cạnh tranh ngành du lịch và khách sạn. Liên minh này thường được hình thành với các đối tác, nhà cung cấp, chính quyền, đối thủ cạnh tranh nhằm bổ sung các kỹ năng và nguồn lực mà mình còn yếu hoặc chưa có (Varadarajan và Cunningham, 1995). Các nguồn lực quan trọng có thể liên minh, liên kết bao gồm: vị trí, thương hiệu, khách hàng, cơ sở vật chất,… Lợi ích đối với các bên tham gia trong việc liên minh này thường là tiếp cận nhanh vào các thị trường, công nghệ và kiến thức mới nhằm đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng.
Các nhà đầu tư ngành du lịch hiện nay cho rằng, để quản lý tốt các hoạt động du lịch thì sự liên minh chiến lược rất quan trọng, việc lựa chọn đối tác liên minh, liên kết một cách cẩn thận là rất cần thiết (TIA, 1999). Sự phụ thuộc lẫn nhau, hợp tác cùng có lợi giữa các doanh nghiệp du lịch đã tạo nên sự thành công của các khu du lịch (Porter và cộng sự, 2001). Sự liên kết, hỗ trợ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp du lịch với nhau và các doanh nghiệp có hoạt động hỗ trợ tại một điểm đến sẽ tốt hơn việc chia sẻ thị trường tại địa điểm du lịch đó. Ngoài ra, sự liên kết này sẽ tạo ra một chuỗi các giá trị về chất lượng sản phẩm và dịch vụ, nó giúp doanh nghiệp quản lý tốt các hoạt động và lường trước những thay đổi của thị trường (Bernini, 2009). Còn theo Erkus (2009), sự liên kết, kết hợp qua lại làm việc với nhau giúp nhân viên các doanh nghiệp này có nhiều cơ hội để quan sát hành vi của nhau, bắt chước nhau và học hỏi kinh nghiệm của nhau. Sự liên kế, hợp tác của các doanh nghiệp cũng cho phép những năng lực cốt lõi khác biệt được kết hợp và kiến thức mới được nâng cao (Denicolai và cộng sự, 2010).
Khi ngành du lịch ngày càng trở thành toàn cầu hóa, để công tác quản lý tốt, đảm bảo sự phát triển bền vững cho doanh nghiệp du lịch tại các điểm du lịch, thì việc thành lập liên minh chiến lược giữa doanh nghiệp du lịch tại các điểm du lịch khác nhau là rất cần thiết (Heath, 2000). Vấn đề về sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và vai trò của họ trong hệ thống điểm đến du lịch đã được nghiên cứu bởi Shaw và Williams (1990). Đây cũng là tiêu chí để đánh giá khả năng quản lý và tính độc đáo trong ngành du lịch, đặc biệt là đối với các công ty nhỏ. Các liên minh thường khác nhau về động cơ, phạm vi, cấu trúc, mục tiêu và cách thức (Evans và cộng sự, 2003). Vì vậy, doanh nghiệp du lịch cần phải xác định rõ những yếu tố nào cần liên minh để có những liên minh phù hợp với mình.
Năng lực tổ chức, quản lý có ảnh hưởng đến NLCT của doanh nghiệp được nghiên cứu bởi các tác giả Porter (1980); Preble, Reichel và Hoffman (2000); Hwang và Chang (2003); Ambastha và Momaya (2004); Ho (2005); Pine và Phillips (2005); Lee và King (2009); Tsai, Song và Wong (2009); Mechinda và cộng sự (2010); Nguyễn Cao Trí (2011); Trần Văn Thi (2011); Trần Thế Hoàng (2011); Williams và Hare (2012); Trần Hữu Ái (2013). Trên cơ sở đó giả thuyết H4 được đề xuất như sau:
H4: Năng lực tổ chức, quản lý ảnh hưởng tích cực đến NLCT của doanh nghiệp du lịch
Bến Tre.
2.3.1.5 Thương hiệu
Theo Kotler, 1994 thương hiệu là một cái tên, một thuật ngữ, một dấu hiệu, một biểu tượng, một thiết kế,… hoặc là sự kết hợp của tất cả các yếu tố trên để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của một người bán với hàng hóa, dịch vụ của đối thủ cạnh tranh. Còn Knapp (2000) cho rằng, thương hiệu là tổng hợp tất cả những ấn tượng nhận được từ khách hàng và người tiêu dùng bởi vị trí được phân biệt rõ trong tâm trí của họ dựa trên những lợi ích chức năng và cảm xúc cảm nhận được. Như vậy, thương hiệu không chỉ là một từ ngữ mà nó còn là sự đam mê, sự cam kết và một lời hứa cần được thực hiện mỗi ngày. Clifton và Simons (2003) cũng khẳng định, thương hiệu là một tập hợp những thuộc tính hữu hình và vô hình, được biểu tượng hóa bằng tên thương mại mà nếu như nó được quản lý đúng hướng nó sẽ tạo ra sức ảnh hưởng và giá trị.
Theo Keller (1993), giá trị thương hiệu hay kiến thức thương hiệu bao gồm hai khía cạnh như nhận biết thương hiệu và hình ảnh thương hiệu. Nhận biết thương hiệu có liên
quan đến sức mạnh của thương hiệu trong trí nhớ, nó được phản ánh bởi khả năng xác định thương hiệu của khách hàng trong điều kiện khác nhau (Rossiter và Percy, 1987). Nó phản ánh sự hiện diện của một thương hiệu trong tâm trí của khách hàng (Konecnik, 2006). Nhận biết thương hiệu bao gồm hồi tưởng (gợi nhớ) thương hiệu và nhận diện thương hiệu (Keller, 1993). Hình ảnh thương hiệu được xác định bởi Keller (1993) như nhận biết về thương hiệu thể hiện qua sự kết hợp thương hiệu trong bộ nhớ của người tiêu dùng.
Nguyen và Nguyen (2003) cho rằng, thương hiệu không chỉ là cái tên, một biểu trưng được sử dụng để khác biệt hóa sản phẩm, dịch vụ với những sản phẩm, dịch vụ cạnh tranh khác mà là một tập hợp những sự liên tưởng dùng để thỏa mãn những nhu cầu về tình cảm và chức năng khách hàng mục tiêu. Còn theo Keller (1998), các thành phần chính của thương hiệu bao gồm: tên thương hiệu, biểu trưng và biểu tượng, các đặc tính của thương hiệu, khẩu hiệu, nhạc hiệu, cụ thể:
- Tên thương hiệu: Keller (1998) cho rằng, tên thương hiệu là một phương tiện truyền thông có ảnh hưởng mạnh ngay lập tức. Clifton và Simmons (2003) khẳng định, tên thương hiệu là quan trọng nhất trong các thành tố của thương hiệu và nó đóng góp quan trọng vào tài sản thương hiệu. Các tác giả này cho rằng, tên thương hiệu là thành tố không bao giờ nên thay đổi dù các thành phần khác của thương hiệu có thể thay đổi theo thời gian.
- Biểu trưng và biểu tượng: là các thành phần của thương hiệu được nhìn thấy bằng mắt. Keller (1998) nhận định rằng, biểu trưng và biểu tượng thường đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng tài sản thương hiệu, đặc biệt đối với sự nhận biết về thương hiệu. Do bản chất nhìn thấy được nên biểu tượng và biểu trưng dễ dàng được nhận ra. Nó là một phương tiện đáng giá để nhận diện sản phẩm, dịch vụ, giúp gia tăng sự nhận biết của thương hiệu từ phía khách hàng.
- Các đặc tính: Keller (1998) cho rằng, đặc tính đại diện cho một loại biểu tượng thương hiệu quan trọng. Một số đặc tính thể hiện cá tính con người hay những nét đặc trưng tiêu biểu trong thực tế. Do các đặc trưng thường đầy màu sắc và giàu tưởng tượng, nên chúng có khuynh hướng dễ được chú ý và ưa thích. Điều này làm cho đặc tính thương hiệu nổi trội hơn so với các thành phần thương hiệu khác.
- Khẩu hiệu: Theo Keller (1998), khẩu hiệu là những nhóm từ ngắn gọn mô tả hay thuyết phục về một thương hiệu nào đó. Khẩu hiệu mang đến nhiều lợi ích trong việc xây dựng tài
sản thương hiệu chẳng hạn như việc xây dựng sự nhận biết thương hiệu. Khẩu hiệu thường xuất hiện trong quảng cáo, bao bì hay các chương trình marketing, nó giúp khách hàng hiểu được ý nghĩa của thương hiệu theo cách mà thương hiệu muốn và theo cách mà nó trở nên đặc biệt.
- Nhạc hiệu: Theo Keller (1998), nhạc hiệu là những thông điệp bằng âm nhạc được viết cho thương hiệu. Nhạc hiệu là một công cụ xây dựng thương hiệu quan trọng vì nó dễ dàng đi vào tâm trí của người nghe. Cũng theo Keller (1998), nhạc hiệu có lẽ là thành phần quan trọng nhất trong việc gia tăng sự nhận biết của thương hiệu.
Theo Kotler (2006), thương hiệu là cảm xúc, nó có tính cách nên dễ dàng chiếm lấy tình cảm và tâm trí của khách hàng. Thương hiệu là một phần quan trọng trong thế giới kinh doanh, thương hiệu giúp chúng ta đưa ra được những quyết định, từ những quyết định nhỏ đến quyết định lớn.
Trong nghiên cứu du lịch, hình ảnh của công ty du lịch, khu du lịch được xác định là một khái niệm của tất cả niềm tin, ý tưởng và ấn tượng (Crompton, 1979). Ngày càng có nhiều nghiên cứu ủng hộ quan điểm cho rằng hình ảnh của công ty du lịch, khu du lịch bao gồm hai khía cạnh như nhận thức và tình cảm (Hosany và cộng sự, 2006). Các thành phần nhận thức có thể được hiểu là niềm tin và kiến thức về thuộc tính vật chất, trong khi thành phần tình cảm đề cập đến cảm xúc đối với các thuộc tính và môi trường (Baloglu và McCleary, 1999). Thương hiệu ngày càng được xem là tài sản cốt lõi, gọi là vốn chủ sở hữu thương hiệu cho ngành kinh doanh du lịch và khách sạn để có được những lợi thế cạnh tranh (Kim và Kim, 2005; Gundersen và công sự, 1996; Prasad và Dev, 2000). Thương hiệu dựa trên nhận thức của khách hàng, nó quan trọng đối với sự thành công của doanh nghiệp. Thật vậy, nếu doanh nghiệp thể hiện hình ảnh rõ ràng, nó có thể giao tiếp hiệu quả với khách hàng về các dịch vụ, giá cả và thái độ của khách hàng (Brown và Ragsdale, 2002; Prasad và Dev, 2000). Do đó, các chương trình tiếp thị hiệu quả dựa trên xây dựng thương hiệu là quan trọng, bởi vì nó nâng cao nhận thức và kết nối thương hiệu với khách hàng. Nó bao gồm lòng trung thành của khách hàng và khách hàng sẵn sàng chi trả một mức giá cao cho thương hiệu (Kim và Kim, 2005).
Quá trình xây dựng thương hiệu cho công ty du lịch, khu du lịch là rất quan trọng đối với NLCT trong dài hạn (Boo và cộng sự, 2009). Sở hữu thương hiệu được coi là một khái
niệm quan trọng bởi vì việc tiếp thị có thể đạt được lợi thế cạnh tranh thông qua thương hiệu thành công (Lassar và cộng sự, 1995). Một thương hiệu mạnh có thể giúp phân biệt sản phẩm dịch vụ của mình với sản phẩm dịch vụ của đối thủ cạnh tranh (Lim và O'Cass, 2001). Khi du lịch là sản phẩm, thương hiệu giúp người tiêu dùng có sự lựa chọn và giảm thiểu rủi ro trong việc đưa ra quyết định (Clarke, 2000).
Thương hiệu có ảnh hưởng đến NLCT của doanh nghiệp được nghiên cứu bởi các tác giả Keller (1993); Gundersen và công sự (1996); Keller (1998); Prasad và Dev (2000); Nguyen và Nguyen (2003); Kim và Kim (2005); Tsai, Song và Wong (2009); Trần Thế Hoàng (2011); Williams và Hare (2012); Trần Bảo An và cộng sự (2012); Trần Hữu Ái (2013). Trên cơ sở đó giả thuyết H5 được đề xuất như sau:
H5: Thương hiệu ảnh hưởng tích cực đến NLCT của doanh nghiệp du lịch Bến Tre.
2.3.1.6 Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực của một tổ chức bao gồm tất cả nỗ lực, kỹ năng và khả năng của những người làm việc cho tổ chức (Manmohan, 2013). Chất lượng của nguồn nhân lực trong doanh nghiệp sẽ tác động đến năng suất mà họ cung cấp (Porter 1980). Theo Manmohan (2013), người nhân viên sẽ làm tốt công việc của mình vì lợi ích của tổ chức cũng như lợi ích của chính họ nếu như họ được quản lý một cách hiệu quả. Để đạt được mục tiêu của tổ chức đề ra, mỗi một người nhân viên phải tham gia vào việc đưa ra các giải pháp và tận tâm để thực hiện chúng (Anne, 1994). Người lao động phải hiểu công việc của mình đóng góp như thế nào vào sự thành công của doanh nghiệp (Brian và cộng sự, 2001). Theo các tác giả này, nguồn nhân lực được coi là một tài sản của doanh nghiệp vì họ đóng một vai trò then chốt trong việc thực hiện mục tiêu, chiến lược và cũng là nguồn tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Cùng quan điểm trên, Wayne (2010) cho rằng con người là một thành phần quan trọng đối với mọi doanh nghiệp, không có con người thì tổ chức không thể tồn tại. Tổ chức càng hoạt động hiệu quả bao nhiêu thì NLCT của họ càng tốt bấy nhiêu. Chính vì vậy, nguồn nhân lực đóng một vai trò quan trọng đối với NLCT của bất cứ tổ chức nào (Wayne, 2010).
Người lao động mà doanh nghiệp tìm kiếm càng trở nên cạnh tranh hơn khi họ có tay nghề cao, đáng tin cậy, có trình độ chuyên môn (Duffey, 1988). Họ phải có khả năng hiểu, sử dụng được công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ thông tin và thích ứng với sự thay đổi
nhanh chóng của tổ chức. Mối liên hệ giữa việc tạo ra và sử dụng tri thức với việc quản lý hiệu quả nguồn nhân lực của doanh nghiệp cần phải có kiểm tra. Việc đào tạo, huấn luyện đóng một vai trò quan trọng nhằm tạo ra sự phát triển chiều rộng và chiều sâu kiến thức của tổ chức (Narasimbha, 2000).
Quản lý nguồn nhân lực là một phần không tách rời của chiến lược duy trì và phát triển doanh nghiệp (David, 2001). Quan điểm dựa vào nguồn lực đã bắt đầu nhấn mạnh tầm quan trọng kiến thức của nhân viên trong tổ chức, nó đóng vai trò quan trọng việc duy trì ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp (Narasimbha, 2000). Trong lĩnh vực du lịch, Bueno (1999) cho rằng, kể từ khi cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được xác định bởi kỹ năng, nguồn lực con người là yếu tố trung tâm trong việc đạt được khả năng cạnh tranh.
Theo báo cáo NLCT du lịch năm 2011, nguồn nhân lực là một nhân tố rất quan trọng trong việc phát triển du lịch và khả năng cạnh tranh trong du lịch. Trong bài nghiên cứu của mình, tác giả Vesna và cộng sự (2011) khẳng định, chất lượng nguồn nhân lực ảnh hưởng đến chất lượng các dịch vụ du lịch và tính cạnh tranh của ngành du lịch. Các tác giả này nhấn mạnh sự gia tăng tính cạnh tranh của ngành du lịch phụ thuộc nhiều vào việc cải thiện chất lượng nguồn nhân lực. Theo Fântânariu và Andra (2011), nguồn nhân lực du lịch có tầm quan trọng đầu tiên trong việc phát triển NLCT của doanh nghiệp du lịch. Sự phát triển của hoạt động du lịch luôn đi kèm với hoạt động đào tạo nhân lực trong lĩnh vực này.
Nguồn nhân lực có ảnh hưởng đến NLCT của doanh nghiệp được nghiên cứu bởi các tác giả Porter (1980); Bueno (1999); Brian và cộng sự (2001); Ambastha và Momaya (2004); Chang và cộng sự (2007); Craigwell (2007); Lee và King (2009); Tsai, Song và Wong (2009); Wayne (2010); Ivanovic, Mikinac và Perman (2011); Nguyễn Cao Trí (2011); Trần Thế Hoàng (2011); Vesna và cộng sự (2011); Fântânariu và Andra (2011); Trần Hữu Ái (2013); Sauka (2014). Trên cơ sở đó giả thuyết H6 được đề xuất như sau:
H6: Nguồn nhân lực ảnh hưởng tích cực đến NLCT của doanh nghiệp du lịch Bến Tre.
2.3.1.7 Trách nhiệm xã hội
Theo Bowen (1953), trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được xác định là trách nhiệm của chủ các doanh nghiệp không làm tổn hại đến các quyền và lợi ích của người khác; chủ doanh nghiệp phải có lòng từ thiện và bù đắp những thiệt hại do doanh nghiệp mình gây ra khi làm tổn hại cho xã hội. Còn Sethi (1975) thì cho rằng, trách nhiệm xã hội