Một Số Kiến Nghị Nhằm Tăng Cường Các Giải Pháp


cũng cần sự tuyên truyền mạnh hơn nữa từ VACPA tới các hội viên và từ chính ban lãnh đạo CTKT tới các KTV.

Ví dụ, trong vụ việc của Công ty Cổ phần Dược phẩm Viễn Đông DVD, nếu KTV chưa thực hiện hết nhiệm vụ của mình, chưa tuân thủ các chuẩn mực, chưa công bố đầy đủ các thông tin theo qui định thì việc đánh giá xử phạt là hợp lý, nhưng nếu DNNY đã cố tình gian lận thì không thể chỉ là trách nhiệm của KTV. Theo ý kiến của ông Võ Hùng Tiến- Tổng Giám đốc Công ty Kiểm toán A&C, kiến nghị: (i) Cần có các qui định cụ thể, rõ ràng, minh bạch về các hành vi sai phạm của KTV và công ty kiểm toán cùng với các biện pháp xử lý kỷ luật cụ thể; (ii) Nếu có vụ việc xảy ra, UBCKNN cần thành lập hội đồng kiểm tra, đánh giá cụ thể các sai phạm của KTV và công ty kiểm toán; sớm có kết luận cụ thể, không để tồn đọng lâu dẫn đến gây tâm lý ức chế cho các KTV và doanh nghiệp kiểm toán không bị vướng vào sai phạm [42].

4.3. Một số kiến nghị nhằm tăng cường các giải pháp

4.3.1. Đối với các cơ quan có thẩm quyền

Để tăng cường tính khả thi của các giải pháp trên, một số kiến nghị đối với các cơ quan liên quan như sau:

Đối với UBCKNN

Kết quả nghiên cứu cho thấy nhân tố Chuyên sâu, Ý thức và Chuyên nghiệp của KTV được đánh giá là 3 nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán, do đó trước hết, UBCKNN hàng năm duy trì việc phối hợp với Vụ Chế độ Kế toán Kiểm toán (Bộ Tài chính), Hội KTV hành nghề VACPA để hỗ trợ CTKT và KTV tăng cường các nhân tố này. Ví dụ để tăng cường kinh nghiệm cho KTV, giảm thiểu rủi ro kiểm toán các lĩnh vực ngành nghề đực biệt, UBCKNN phối hợp với VACPA tổ chức hội thảo để rút kinh nghiệm về những sai sót trong quá trình kiểm toán với các CTKT được UBCK chấp thuận như gần đây đã thực hiện. Đặc biệt, cần đưa ra ý kiến về xử lý trường hợp chưa có quy định hoặc quy định không thống nhất giữa các văn bản pháp lý để các CTKT có hướng xử lý thống nhất.

UBCKNN cân nhắc mở rộng yêu cầu kiểm toán đối với các công ty con, công ty liên kết, liên doanh của DNNY, công ty đại chúng hay các công ty có các khoản giao dịch lớn với các DNNY, công ty đại chúng vì theo kết quả khảo sát, tính phức tạp trong ngành nghề kinh doanh là nhân tố quan trọng nhất thuộc các nhân tố


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 225 trang tài liệu này.

bên ngoài ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán. Do vậy, qui định này sẽ tạo điều kiện cho quá trình kiểm toán BCTC hợp nhất của CTKT diễn ra thuận lợi, hạn chế tình trạng có nhiều BCKT đưa ra ý kiến ngoại trừ liên quan đến việc chưa thu thập đủ BCTC đã kiểm toán của các công ty con, công ty liên kết như hiện nay.

UBCKNN là cơ quan nắm rõ nhiều sai sót của doanh nghiệp niêm yết và các công ty kiểm toán, nên UBCKNN đã phối hợp với Bộ Tài chính, VACPA định kỳ tổ chức hội thảo rút kinh nghiệm cho các công ty kiểm toán được UBCKNN chấp thuận để các CTKT nhận rõ các hạn chế và có hướng khắc phục. Công việc này theo các CTKT đánh giá là hiệu quả do vậy nên tiếp tục được duy trì hàng năm. UBCKNN cần đưa ra ý kiến về xử lý các trường hợp chưa có quy định hoặc quy định không thống nhất giữa các văn bản pháp quy để các công ty kiểm toán có hướng xử lý thống nhất tạo ra sự minh bạch trong BCTC đã kiểm toán. Điều này cũng góp phần giảm bớt số lượng BCKT có ý kiến ngoại trừ, chất lượng kiểm toán sẽ được nâng cao, góp phần cải thiện hơn nữa thị trường kiểm toán ở Việt Nam.

Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 21

Đối với Bộ Tài chính

Theo kết quả khảo sát, môi trường pháp lý là nhân tố quan trọng chỉ sau DNNY (thuộc nhân tố bên ngoài) có ảnh hưởng cao nhất tới chất lượng kiểm toán, do vậy, trước mắt Bộ Tài chính tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động kiểm toán toán tập trung vào các vướng mắc cụ thể đã phân tích ở trên.

Bên cạnh đó, nhân tố thuộc DNNY theo kết quả khảo sát có ảnh hưởng quan trọng nhất (trong số nhân tố thuộc nhóm bên ngoài) tới chất lượng kiểm toán. Cụ thể vào những thời điềm khó khăn, DNNY chịu sức ép lớn về doanh thu, chi phí... nên thường muốn có một BCTC đẹp. Hơn nữa, khi khảo sát về bối cảnh thực tế về nhận định: Ban lãnh đạo DNNY chịu sức ép đối với cổ đông dẫn tới xu hướng lập BCTC không trung thực, đã cho tỷ lệ cao nhất về mức độ đồng ý ở mức cao đến rất cao là 65,94%, do vậy để ngăn chặn điều này, Bộ Tài chính cần qui định đối với các DNNY không được tùy tiện hủy hợp đồng kiểm toán và đổi KTV. Nếu có hủy hợp đồng và thay đổi CTKT thì nghĩa vụ của DNNY là phải có báo cáo giải thích rõ lý do thay đổi kiểm toán hoặc ngừng cung cấp dịch vụ kiểm toán.

Nhân tố thứ hai có mức ảnh hưởng cao đó là sự hiểu biết của ban lãnh đạo DNNY về chuẩn mực chế độ kế toán hiện hành. Bộ Tài chính nên cân nhắc áp dụng cấp chứng chỉ hành nghề cho mọi đối tượng muốn hành nghề kế toán, không chỉ là


bắt buộc đối với kế toán trưởng như hiện nay; và nên giao cho Hiệp hội hành nghề kế toán đào tạo và cấp chứng chỉ như một số quốc gia phát triển hiện nay đã thực hiện. Điều này sẽ giúp nâng cao chất lượng của các BCTC.

Đối với VACPA

Vai trò của VACPA là hỗ trợ nghề nghiệp cho các KTV và CTKT, đồng thời thực hiện chức năng kiểm soát chất lượng từ ngoài đối với các CTKT. Thực tế, việc phổ biến kiến thức và kiểm soát chất lượng các công ty kiểm toán hàng năm với số công ty được kiểm tra ngày càng tăng, phương pháp kiểm tra được đánh giá là ngày càng hiệu quả [28]. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy, công tác kiểm soát chất lượng của VACPA hiện có ảnh hưởng không mang tính quyết định tới chất lượng kiểm toán. Do vậy trước mắt, VACPA nên tập trung vào vai trò hỗ trợ nâng cao chất lượng của các công ty kiểm toán bằng cách tổ chức tọa đàm trao đổi kinh nghiệm giữa các CTKT cũng như phổ biến các vi phạm thường gặp để các CTKT rút kinh nghiệm, đồng thời, tăng cường đào tạo cập nhật kiến thức hàng năm, tập trung giải đáp thắc mắc của các công ty kiểm toán. Và quan trọng nhất trong thời gian này là VACPA phối hợp với Bộ Tài chính tiếp tục triển khai các khóa đào tạo phổ biến các CMKT và CMKiT mới tới các DNNY, KTV và CTKT nhằm đưa các chuẩn mực mới áp dụng hiệu quả trong thực tế.

Bên cạnh đó, VACPA nên hỗ trợ đào tạo để giúp KTV tăng cường khả năng kinh nghiệm chuyên sâu, tăng cường ý thức, tính chuyên nghiệp, hỗ trợ các công ty kiểm toán để thiết kế các công cụ làm việc hiệu quả, ví dụ hỗ trợ qui trình kiểm toán mẫu chuyên sâu (như hiện nay VACPA đã xây dựng qui trình kiểm toán mẫu cho các CTKT rất hiệu quả, đặc biệt là đối với các CTKT nhỏ và vừa). VACPA có thể hỗ trợ các CTKT xây dựng và vận hành chính sách kiểm soát chất lượng nội bộ trong các công ty kiểm toán sao cho hiệu quả nhất.

Bộ Tài chính, VACPA và UBCKNN cũng nên xem xét lại tiêu chuẩn của CTKT đủ điều kiện kiểm toán DNNY không nên chỉ xác định theo qui mô kiểm toán mà xem xét thêm các tiêu chí định tính từ kết quả nghiên cứu đó là, hệ thống kiểm soát chất lượng, phương pháp/qui trình kiểm toán, chất lượng đội ngũ KTV.

4.3.2. Đối với doanh nghiệp niêm yết

Kết quả khảo sát về các nhân tố bên ngoài cho thấy, DNNY có mức độ ảnh hưởng cao nhất tới chất lượng kiểm toán. Do vậy đối với DNNY, để tránh những


chênh lệch số liệu không đáng có giữa BCTC trước và sau kiểm toán- là một tình trạng rất phổ biến trong thời gian qua, những người chịu trách nhiệm thiết lập, trình bày, ký và công bố các BCTC nên được hiểu biết nhiều hơn tới các chuẩn mực và qui định hiện hành liên quan.

Khi khảo sát về mức độ đồng ý của KTV về nhận định: DNNY chưa tuân thủ các chuẩn mực kế toán và các qui định hiện hành có liên quan trong việc thiết lập, trình bày và công bố các BCTC theo qui định, tỷ lệ đồng ý ở mức cao-rất cao là 44,93%. Điều này do nhiều nguyên nhân trong đó có sự hiểu biết của DNNY về trách nhiệm và nghĩa vụ trình bày và công bố các BCTC, do đó, UBCKNN và VACPA nên tiếp tục duy trì tổ chức các buổi tăng cường kiến thức bắt buộc đối với ban lãnh đạo (bao gồm cả kế toán trưởng) về chuẩn mực và chế độ liên quan đến lập và trình bày các BCTC như trong thời gian qua.

Để giảm sự ảnh hưởng xấu từ phía DNNY tới chất lượng kiểm toán, bản thân các DNNY cũng cần hiểu rõ trách nhiệm của mình cũng như vai trò của doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng kiểm toán BCTC, trước hết ở trách nhiệm duy trì và thiết lập một hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động hiệu quả; hỗ trợ tích cực đúng trách nhiệm cho các KTV tiếp cận các thông tin báo cáo của doanh nghiệp trong việc thu thập bằng chứng kiểm toán; giải trình đầy đủ và trung thực các vấn đề mâu thuẫn giữa KTV và doanh nghiệp nếu có, nhằm hướng tới một BCTC đã được kiểm toán phản ánh đúng thực trạng tài chính của DNNY, giúp đảm bảo niềm tin của NĐT.

4.3.3. Lưu ý đối với nhà đầu tư khi sử dụng các báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính

Khảo sát về bối cảnh thực tế cho thấy, khi được hỏi KTV về nhận định: Nhà đầu tư chưa hiểu biết đầy đủ về vai trò của kiểm toán BCTC, cũng như quyền lợi khi sử dụng các thông tin trên BCTC đã được kiểm toán, đã cho kết quả 52,17% ý kiến đồng ý ở mức cao-rất cao và 31,16% đồng ý ở mức trung bình. Vấn đề là sử dụng các BCTC đã được kiểm toán sẽ giúp các NĐT giảm được các rủi ro thông tin như thế nào? Và liệu các BCTC đã được kiểm toán có là sự đảm bảo cho NĐT tránh hoàn toàn rủi ro khi sử dụng chúng cho các quyết định đầu tư của mình hay không? Vai trò của kiểm toán BCTC DNNY trước hết nhằm bảo vệ NĐT và sau cùng là vì sự phát triển an toàn và lành mạnh của TTCK, theo đó, những lưu ý đối với NĐT là:


(1) Trước hết, cần khẳng định rằng, ý kiến của KTV làm tăng độ tin cậy của BCTC, nhưng người sử dụng BCTC không thể cho rằng ý kiến của KTV (hay trách nhiệm của KTV) là sự đảm bảo về khả năng tồn tại của DN trong tương lai, cũng đang tăng trưởng, có lãi hoặc DN hiện đang có một ban lãnh đạo điều hành hiệu quả... Kiểm toán BCTC chỉ giúp NĐT có được các thông tin tin cậy về tình hình sản xuất kinh doanh của DN tại thời điểm báo cáo, để tự NĐT phân tích và đưa ra các quyết định phù hợp và KTV chịu trách nhiệm về tính đúng/sai của ý kiến của mình.

(2) Đối với BCKiT đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần, NĐT có thể tin tưởng, KTV đã đảm bảo rằng BCTC không còn chứa đựng những sai lệch thông tin một cách trọng yếu, gây ảnh hưởng đến quan điểm và quyết định của người sử dụng thông tin. Tuy nhiên, một số lưu ý đối với các NĐT là:

- BCKiT nêu ý kiến chấp nhận toàn bộ vẫn được đưa ra trong trường hợp, BCTC ban đầu (chưa kiểm toán) có các sai phạm trọng yếu nhưng nó đã được sửa đổi theo ý kiến của KTV. Như vậy, NĐT cần lưu ý so sánh xem số liệu thông tin nào đã được sửa đổi sau khi được kiểm toán, dựa trên việc đọc BCTC đã kiểm toán và chưa kiểm toán, hoặc có thể đọc thêm các giải trình (nếu có) của DN được kiểm toán công bố đính kèm, để có được các thông tin đầy đủ hơn về tình hình tài chính của DN.

- Ngoài ra, đối với ý kiến dạng chấp nhận toàn bộ thì KTV chỉ đảm bảo về tính trung thực và hợp lý dựa trên các khía cạnh trọng yếu, nghĩa là BCTC có thể vẫn có những sai sót nhỏ nhưng theo KTV là không trọng yếu. Vì thế, ngay cả những BCTC được KTV đưa ra ý kiến chấp nhận toàn bộ, NĐT cũng nên có sự thận trọng nhất định.

- Trường hợp KTV nêu ý kiến chấp nhận toàn bộ trong BCKiT, nhưng vẫn đưa ra những dòng Lưu ý (hoặc nhấn mạnh) đối với người đọc về một số vấn đề trên BCTC- mặc dù theo KTV đây không phải là những sai lệch trọng yếu.

(3) Đối với dạng ý kiến không phải là chấp nhận toàn phần, dạng chấp nhận từng phần, hay ý kiến chấp nhận có yếu tố ngoại trừ, NĐT phải rất thận trọng đối với dạng báo cáo này và cần đọc đầy đủ các yếu tố mà KTV đã nêu ra, nhằm ngoại trừ khoản mục/bộ phận/hay thông tin nào trên BCTC và đây thường là những thông tin khá nhạy cảm, có thể ảnh hưởng đến người sử dụng các BCTC. Theo chuẩn mực nghề nghiệp, KTV chỉ được phép đưa ra ý kiến này trong trường hợp có sai lệch về thông tin trong từng khoản mục, bộ phận của BCTC, nhưng xét trên toàn BCTC, tổng hợp các sai lệch này được coi là không trọng yếu.


(4) NĐT cần lưu ý đến thuật ngữ trọng yếu”. KTV có trách nhiệm về tính trung thực và hợp lý xét trên khía cạnh trọng yếu của các BCTC được kiểm toán. Tuy nhiên, như thế nào là trọng yếu (định tính) và bao nhiêu là trọng yếu (định lượng) là do KTV xác định dựa trên sự xét đoán chủ quan nghề nghiệp của KTV về mức độ ảnh hưởng của nó tới quyết định của người sử dụng (nhất là các NĐT trên TTCK) và không phải khi nào tính trọng yếu cũng được KTV đánh giá thỏa đáng.

Về sự kiện của Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết (BBT), BCKiT về BCTC năm 2006 đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần, được thể hiện bởi thuật ngữ “ngoại trừ”, dẫn đến chỉ tiêu lãi 2,2 tỷ đồng năm 2006 được ghi nhận. Tuy nhiên yếu tố ngoại trừ này đã làm thay đổi về mặt bản chất của BCTC. BBT công bố BCKiT BCTC năm 2006 có các yếu tố “ngoại trừ và lưu ý” lên đến gần 10 tỷ đồng, nghĩa là nếu ngoại trừ hết các yếu tố này, BBT có thể lỗ 8,48 tỷ đồng. Vì vậy, để tránh rủi ro cho mình, NĐT nhất thiết phải đọc các BCTC đồng thời với BCKiT để có cái nhìn đúng đắn về các số liệu trên BCTC, nhất là đối với những điểm mà KTV lưu ý và ngoại trừ trên BCTC đính kèm.

(5) Cuối cùng, lưu ý, trong trường hợp KTV đưa ra sự đảm bảo chắc chắn về tính trung thực và hợp lý của các BCTC đã được KTV kiểm toán, thì có thể trên chính các BCTC đó vẫn còn chứa đựng các sai phạm trọng yếu, làm sai lệch về mặt bản chất số liệu thông tin trên BCTC. Điều này có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng gồm hai nhóm nguyên nhân chính:

- Do các nhân tố thuộc về KTV: Theo kết quả khảo sát đó là khả năng chuyên sâu, ý thức nghề nghiệp của KTV đã không được duy trì trong quá trình kiểm toán; hoặc; - Do những gian lận quá tinh vi từ DNNY, đặc biệt là ban lãnh đạo doanh nghiệp (dù KTV đã thực hiện công việc theo đúng chuẩn mực nghề nghiệp).

Vì vậy, ngay cả các BCTC nhận được ý kiến chấp nhận hoàn hảo nhất từ KTV cũng không đảm bảo rằng, người sử dụng BCTC sẽ không gặp bất cứ một rủi ro nào.


Kết luận Chương 4


Dựa trên kết quả khảo sát mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới chất lượng kiểm toán BCTC DNNY trên TTCK Việt Nam, đồng thời phỏng vấn thêm ý kiến một số chuyên gia, cũng như quan sát thực tế, các nhóm giải pháp được đề xuất cần tập trung gồm: Thứ nhất, nhóm giải pháp tăng cường chất lượng đội ngũ kiểm toán viên, gồm: Tăng cường kinh nghiệm chuyên sâu, ý thức tuân thủ chuẩn mực và tính chuyên nghiệp khi thực hiện cuộc kiểm toán tại khách hàng; Thứ hai, nhóm giải pháp nâng cao chất lượng các công ty kiểm toán, trong đó cần tập trung thiết kế và vận hành chính sách quản lý chất lượng và phương pháp/công cụ kiểm toán chuyên nghiệp, hiệu quả; Thứ ba, nhóm giải pháp cải thiện môi trường pháp lý.

Để tăng cường tính khả thi của các giải pháp, tác giả kiến nghị đối với các cơ quan có thẩm quyền như Bộ Tài chính, VACPA, Ủy Ban Chứng khoán Nhà nước, theo đó, nên chú trọng trước hết vào vai trò hỗ trợ đào tạo, tọa đàm trao đổi kinh nghiệm chuyên sâu. Đồng thời, kiến nghị đối với DNNY nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của ban lãnh đạo DNNY trong việc trình bày và công bố các BCTC. Ngoài ra là một lưu ý đối với NĐT về những khả năng xảy ra rủi ro khi sử dụng các BCTC đã được kiểm toán.


KẾT LUẬN


Kiểm toán BCTC các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK có vai trò đặc biệt quan trọng nhằm đảm bảo độ tin cậy của các BCTC phục vụ cho các quyết định kinh tế của các nhà đầu tư, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, các DNNY có xu hướng lập các BCTC thiếu trung thực. Những vụ việc xảy ra trong và ngoài nước liên quan đến sự phá sản của các doanh nghiệp lớn hoặc bị hủy niêm yết, hàng nghìn nhà đầu tư trở nên trắng tay, do các BCTC được công bố vẫn còn chứa đựng các sai sót trọng yếu nhưng vẫn nhận được ý kiến xác nhận là trung thực và hợp lý từ phía KTV, khiến cho việc nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán BCTC doanh nghiệp niêm yết trở thành mối quan tâm trên TTCK.

“Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán BCTC các DNNY trên TTCK Việt Nam” là đề tài nghiên cứu góp phần trả lời ba câu hỏi: (i) Những nhân tố nào cũng như tiêu chí nào đo lường nhân tố được xác định là có ảnh hưởng quan trọng tới chất lượng kiểm toán BCTC doanh nghiệp niêm yết trên TTCK tại Việt Nam hiện nay?; (ii) Nhân tố nào được đánh giá là có mức độ ảnh hưởng quan trọng nhất, cũng như thứ tự mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, tới chất lượng kiểm toán BCTC doanh nghiệp niêm yết trên TTCK Việt Nam hiện nay?; (iii) Giải pháp nào cần được đưa ra hoặc quan tâm chú trọng nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán BCTC doanh nghiệp niêm yết trên TTCK Việt Nam? Theo đó, những đóng góp chính của Đề tài như sau:

- Tổng hợp, phát triển lý luận theo hướng đi sâu vào các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán BCTC của các DNNY. Từ những đặc trưng riêng của DNNY, đến những đặc trưng của BCTC doanh nghiệp niêm yết, vai trò của kiểm toán đối với BCTC của DNNY, quan điểm về chất lượng kiểm toán BCTC của các DNNY cũng như đối tượng quan tâm tới BCTC của DNNY đã được làm rõ về cơ sở lý luận. Qua phân tích chi tiết công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước đã giúp hình thành khung lý thuyết, hệ thống hóa và phân loại 3 nhóm nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán BCTC của DNNY, gồm nhóm nhân tố về kiểm toán viên, nhóm về các công ty kiểm toán và nhóm nhân tố bên ngoài.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/11/2022