(3) Chế tài xử phạt và trách nhiệm của các bên liên quan. Riêng đối với TTCK, do tính chất ảnh hưởng của BCTC cũng như ý kiến của KTV về BCTC (BCKiT) đến rất nhiều đối tượng, do vậy chế tài xử phạt và qui định rõ trách nhiệm pháp lý cho hoạt động kiểm toán phải đảm bảo sự rõ ràng, thể hiện rõ trách nhiệm của KTV cũng như DNNY và các bên liên quan đối với những vi phạm liên quan đến tính trung thực và hợp lý của BCTC và kiểm toán BCTC DNNY. Ví dụ các vụ việc như của Công ty Bông Bạch Tuyết BBT, Công ty Dược Viễn Đông DVD ở Việt Nam thì trách nhiệm của KTV, cũng như ban lãnh đạo DNNY liên quan đến những sai phạm trọng yếu vẫn được phát hiện trên các BCTC dù đã được kiểm toán, là chưa được qui định rõ dẫn đến thiệt hại cho người sử dụng thông tin. Mặc dù Chính phủ đã ban hành chế tài xử phạt liên quan đến những vi phạm trong lĩnh vực TTCK, trong đó có hoạt động kiểm toán tại Nghị định số 85/2010/NĐ-CP, theo đó, đã có nhiều KTV và một số CTKT bị xử phạt, tuy nhiên mức độ răn đe chưa được đánh giá cao. Bởi vai trò quan trọng của các chế tài xử phạt, mới đây, ngày 23/9/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 108/2013/NĐ-CP có hiệu lực từ 15/11/2013 thay thế Nghị định 85 nhằm tăng cường mức phạt và chỉ rõ nội dung xử phạt đối với KTV và CTKT được chấp thuận nếu có vi phạm.
Như vậy, các chế tài xử phạt và trách nhiệm của các bên liên quan càng được qui định rõ ràng, giúp KTV nhận thức rõ trách nhiệm của mình, sẽ giúp chất lượng kiểm toán BCTC DNNY trên TTCK Việt Nam được đảm bảo và nâng cao hơn.
2.3.1.2. Nhân tố khách hàng là doanh nghiệp niêm yết (DNNY)
Khách hàng là DNNY có ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán BCTC của doanh nghiệp niêm yết bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến tính trung thực và hợp lý của các BCTC do chính ban lãnh đạo DNNY thiết lập, trình bày và công bố, do vậy ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán BCTC doanh nghiệp niêm yết và đây là sự ảnh hưởng thuận chiều. Chuẩn mực nghề nghiệp kiểm toán qui định rõ, trách nhiệm thiết lập và trình bày các BCTC trung thực hợp lý là thuộc về ban lãnh đạo doanh nghiệp, KTV có trách nhiệm kiểm tra và đưa ra ý kiến về mức độ trung thực hợp lý của các BCTC, nghĩa là KTV thực hiện đúng trách nhiệm nghề nghiệp của mình nhằm phát hiện và báo cáo về những sai phạm trên BCTC (nếu có). Do vậy, nhân tố thuộc về khách hàng (DNNY) là rất quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng thông tin trên BCTC và qua đó ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán.
Tại Việt Nam, qua phân tích thực trạng đặc điểm doanh nghiệp niêm yết và BCTC của doanh nghiệp niêm yết trên TTCK thời gian qua, cho thấy, những nhân tố
thuộc về ban lãnh đạo và những người có trách nhiệm thiết lập, trình bày, công bố các BCTC như sự quan tâm, hiểu biết của ban lãnh đạo đối với các chuẩn mực, chế độ có liên quan còn chưa tốt, dẫn đến thực tế phát sinh những sai lệch trong các BCTC trước kiểm toán, cũng như những tranh luận mâu thuẫn giữa DNNY và KTV, khiến các BCTC sau kiểm toán nhiều chỉ tiêu quan trọng đã phải điều chỉnh. Chưa kể một số trường hợp liên quan đến tính chính trực của ban lãnh đạo DNNY khiến các BCTC bị trình bày sai lệch, gây thiệt hại cho nhà đầu tư như trường hợp của Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết, Công ty cổ phần Dược Viễn Đông. Hơn nữa, thực tế tính phức tạp trong qui mô, tổ chức cũng như các ngành nghề kinh doanh của DNNY và tính chất phức tạp trong các khoản mục nghiệp vụ mang tính đặc trưng của DNNY như đã phân tích, đều có ảnh hưởng đến chất lượng thông tin BCTC. Theo đánh giá thực tế, hệ thống kiểm soát nội bộ của DNNY còn yếu cũng đã làm tăng thêm rủi ro kiểm toán cho các KTV, qua đó ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán [31], [50].
Những tiêu chí đo lường nhân tố khách hàng DNNY đó là:
(1) Sự hiểu biết của ban lãnh đạo DNNY về luật pháp, chuẩn mực và các quy định pháp lý hiện hành có liên quan
Ban lãnh đạo DNNY càng có sự hiểu biết về luật pháp, chuẩn mực và các quy định pháp lý hiện hành có liên quan đến thiết lập, trình bày và công cố các BCTC, cũng như công việc kiểm toán của KTV/CTKT, sẽ càng giúp chất lượng các BCTC trước kiểm toán minh bạch hơn, do đó giúp chất lượng kiểm toán BCTC DNNY cũng được đảm bảo và nâng cao hơn.
(2) Tính chính trực của Ban lãnh đạo DNNY về trách nhiệm công bố BCTC một cách trung thực và hợp lý
Ban lãnh đạo DNNY có thể phải chịu nhiều sức ép từ các cổ đông và NĐT, nhất là vào những thời điểm khó khăn. Nếu kinh doanh lâm vào tình trạng khó khăn, có nguy cơ phá sản hoặc thu hẹp qui mô kinh doanh, dẫn đến thua lỗ, nhưng thông thường, DNNY vẫn muốn có một BCTC đẹp để làm hài lòng NĐT (vì uy tín, vì giá trị công ty, cổ phiếu và chính ban lãnh đạo lại là các cổ đông chủ chốt, hoặc họ có thể muốn bán được cổ phiếu với giá cao trước khi BCTC thể hiện tình trạng xấu được công bố…). Tất cả những điều này có thể tạo nên sức ép cho ban lãnh đạo doanh nghiệp trong việc thiết lập và trình bày một BCTC trung thực và hợp lý. Nếu ban lãnh đạo DNNY chính trực sẽ giúp BCTC trở nên đáng tin cậy hơn, qua đó, giúp kiểm toán BCTC DNNY chất lượng hơn.
(3) Qui mô và tổ chức của DNNY (công ty con, cơ cấu tổ chức)
Hình thức sở hữu, mô hình, cơ cấu tổ chức quản lý tại các doanh nghiệp nói chung và DNNY nói riêng nói chung khá phức tạp. Nhiều DNNY hoạt động dưới hình thức công ty mẹ với nhiều công ty con, công ty liên kết, hay công ty còn do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối (trên 50%), điển hình các DNNY được coi là doanh nghiệp Nhà nước như ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam. Tuy nhiên, việc thay đổi về cơ cấu tổ chức và vận hành của bộ máy kế toán có thể chưa được tiến hành đồng thời và phù hợp với sự thay đổi của cơ cấu quản lý, sở hữu, dẫn đến khó khăn trong quá trình hợp nhất BCTC và kiểm toán BCTC hợp nhất, điều này có thể gây ra những khó khăn cho KTV trong việc tìm kiếm các bằng chứng, do đó chất lượng BCTC và theo đó là chất lượng kiểm toán có thể bị ảnh hưởng.
(4) Tính phức tạp trong lĩnh vực ngành nghề kinh doanh của DNNY
Đặc điểm ngành nghề, hoạt động kinh doanh của DNNY cũng có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng BCTC, đặc biệt là các ngân hàng, doanh nghiệp kinh doanh xây dựng, đầu tư bất động sản, đầu tư tài chính.
Ví dụ các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng cơ bản. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này có một số đặc điểm như chu trình kinh doanh kéo dài, hoạt động phân tán trên địa bàn rộng, giá trị các khoản phải thu, phải trả, hàng tồn kho chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị tài sản và nguồn vốn, hoạt động xây dựng khá phức tạp thường xuyên phát sinh các khoản chi phí ngoài dự toán. Quá trình bàn giao, nghiệm thu, hoàn thiện các thủ tục pháp lý kéo dài. Hoạt động xây dựng cơ bản cũng dễ chịu ảnh hưởng tiêu cực của điều kiện kinh tế vĩ mô. Do vậy, quá trình lập BCTC tại các doanh nghiệp xây dựng dễ xảy ra tình trạng sai sót, hoặc chưa có đầy đủ các căn cứ ghi nhận giá trị đầu tư xây dựng.
Như vậy, lĩnh vực ngành nghề kinh doanh của DNNY càng phức tạp có khả năng ảnh hưởng tới chất lượng thông tin BCTC và do đó gây ảnh hưởng đến khả năng phát hiện các sai phạm trọng yếu trong BCTC các DNNY- chất lượng kiểm toán.
(5) Tính phức tạp của các khoản mục/nghiệp vụ trên BCTC của DNNY
Các khoản mục/nghiệp vụ trên BCTC của DNNY càng phức tạp (ví dụ: hàng tồn kho, khoản phải thu, đầu tư tài chính) sẽ gây khó khăn cho KTV trong việc thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp, và qua một nghiên cứu phân tích thực trạng các báo cáo kiểm toán tại Việt Nam, đây chính là nguyên nhân KTV bắt buộc phải đưa ra các ý kiến ngoại trừ, gây ảnh hưởng tới chất lượng ý kiến của KTV (chất lượng kiểm toán) [31].
(6) Chất lượng của hệ thống kiểm soát nội bộ DNNY
Chất lượng của hệ thống kiểm soát nội bộ (gồm môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán và các thủ tục kiểm soát) là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng thông tin trên BCTC, do đó có khả năng ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán. Qua phân tích thực trạng ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán về BCTC trên TTCK tại Việt Nam, nội dung của nhiều điểm giới hạn phạm vi kiểm toán trình bày trên các BCKiT của các KTV có thể có nguồn gốc từ sự chưa hoàn thiện của hệ thống kiểm soát nội bộ, bao gồm hệ thống thông tin kế toán và các thủ tục kiểm soát tại các DNNY [31]. Ngoài ra, một số DNNY hoạt động dưới hình thức tập đoàn chưa chủ động trong việc xây dựng được qui trình kế toán phù hợp để phục vụ mục đích hợp nhất BCTC, dẫn đến những khó khăn trong quá trình hợp nhất BCTC.
Tóm lại, qua nghiên cứu tổng quan và thực trạng nhân tố thuộc về DNNY tại Việt Nam cho thấy các nhân tố thuộc về DNNY được xác định là có ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán. Nếu các nhân tố thuộc về DNNY càng đảm bảo, càng giúp các BCTC được lập một cách trung thực và hợp lý, theo đó tạo thuận lợi cho công việc của KTV và CTKT, giúp chất lượng kiểm toán được đảm bảo và nâng cao hơn.
2.3.1.3. Nhân tố bên ngoài khác (Ngoài khác)
Các nhân tố bên ngoài khác thường được nhận thức là có ảnh hưởng tới chất lượng thông tin BCTC và chất lượng kiểm toán BCTC DNNY là môi trường kinh tế, văn hóa và vai trò kiểm soát từ ngoài đối với hoạt động kiểm toán.
(1) Môi trường kinh tế vĩ mô
Môi trường kinh tế vĩ mô (như tăng trưởng, lạm phát, lãi suất) là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của các doanh nghiệp, từ đó có thể ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng các BCTC. Thực tế Việt Nam, thời điểm từ năm 2007 đến nay, do điều kiện kinh tế vĩ mô không thuận lợi, đã có ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, khiến các doanh nghiệp có thể có động cơ “làm đẹp” BCTC. Điều này gây áp lực và khó khăn cho KTV trong việc phát hiện và báo cáo về các sai phạm trọng yếu trên BCTC (nếu có) và do vậy ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng kiểm toán BCTC DNNY.
(2) Môi trường văn hóa, thói quen của người sử dụng dịch vụ kiểm toán
Trình độ văn hoá, thói quen và sở thích tiêu dùng của mỗi người là khác nhau, phụ thuộc vào thu nhập, trình độ học vấn, môi trường sống, phong tục, tập quán tiêu dùng... của mỗi quốc gia, mỗi khu vực. Kiểm toán BCTC DNNY đối với
TTCK Việt Nam là dịch vụ kinh doanh mới mẻ và có ảnh hưởng quan trọng đến lợi ích kinh tế của người sử dụng, tuy nhiên, người sử dụng dịch vụ, nhất là các NĐT cá nhân với trình độ khác nhau và hầu hết chưa nhận thức được vai trò của kiểm toán, cũng như quyền lợi sử dụng dịch vụ và trách nhiệm từ phía DNNY trong việc cung cấp BCTC và từ phía CTKT trong việc cung cấp dịch vụ kiểm toán. Hơn nữa, thói quen đầu tư không dựa trên các thông tin BCTC của các NĐT cá nhân, khiến họ cũng không quan tâm đến chất lượng kiểm toán. Điều này có thể khiến các KTV và công ty kiểm toán chủ yếu đáp ứng nhu cầu kiểm toán theo “nhiệm vụ” mà chưa chú trọng nâng cao chất lượng.
Vì vậy, nhân tố môi trường văn hóa, thói quen của người sử dụng dịch vụ được xác định là một nhân tố có ảnh hưởng tới chất lượng cung cấp dịch vụ kiểm toán của KTV/CTKT đối với BCTC các DNNY trên TTCK Việt Nam hiện nay.
(3) Vai trò kiểm soát chất lượng kiểm toán BCTC DNNY từ bên ngoài
Như đã phân tích thực trạng tại Việt Nam, VACPA, UBCKNN, Bộ Tài chính là những cơ quan quản lý có vai trò kiểm soát chất lượng kiểm toán BCTC DNNY từ ngoài, trong đó VACPA chịu trách nhiệm chính. Kết quả đánh giá cho thấy, còn những tồn tại, bất cập về cơ quan tiến hành kiểm soát chất lượng, nhân lực cho việc tổ chức kiểm soát, qui chế kiểm soát chất lượng, qui chế lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán được chấp thuận, đã dẫn đến vai trò của kiểm soát chất lượng kiểm toán từ ngoài chưa thật sự hiệu quả [28]. Trong nhiều nghiên cứu nước ngoài cũng cho thấy kiểm soát từ ngoài có ảnh hưởng quan trọng tới chất lượng kiểm toán nói chung, do vậy, nhân tố vai trò kiểm soát chất lượng từ ngoài được xác định là có ảnh hưởng quan trọng tới chất lượng kiểm toán BCTC các DNNY trên TTCK Việt Nam hiện nay.
2.3.2. Nhóm Nhân tố thuộc về kiểm toán viên/nhóm kiểm toán
Các nhân tố thuộc về KTV/nhóm kiểm toán (Nhóm B) được xác định là nhóm nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán BCTC DNNY trên TTCK Việt Nam, bao gồm tính độc lập, trình độ chuyên môn nghề nghiệp, kinh nghiệm, đạo đức, tính cách của KTV/nhóm kiểm toán… KTV/nhóm kiểm toán là những người trực tiếp thực hiện cuộc kiểm toán, có trách nhiệm phát hiện và báo cáo về các sai phạm trọng yếu trên BCTC (nếu có), vì vậy, cho dù các nhân tố khác như môi trường kinh tế không thuận lợi, BCTC được lập thiếu trung thực bởi ban lãnh đạo do trình độ, sự thận trọng hoặc do cố ý, với năng lực và tính độc lập khách quan của các KTV, chất lượng kiểm toán vẫn có thể được đảm bảo.
Tổng quan nghiên cứu Chương 1 đã cho thấy, các nhân tố thuộc về KTV được nhiều nghiên cứu đánh giá là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán BCTC DNNY, nhóm nhân tố này còn được coi là thuộc tính hình thành nên chất lượng kiểm toán. Thực tế tại Việt Nam, các nhân tố thuộc KTV/nhóm KT chưa đảm bảo, một phần do hoạt động kiểm toán còn mới ở Việt Nam, phần khác do chưa được quan tâm chú trọng [28].
8 nhân tố và 32 tiêu chí đo lường nhân tố thuộc về KTV/nhóm kiểm toán được xác định ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán BCTC DNNY trên TTCK Việt Nam hiện nay (Sơ đồ 2.2) gồm:
2.3.2.1 Đảm bảo tính độc lập (Độc lập)
Tính độc lập của KTV/nhóm kiểm toán đối với DNNY (Độc lập) | |||
Trình độ chuyên môn nghề nghiệp của KTV/nhóm kiểm toán (Trình độ) | |||
Khả năng chuyên sâu (tinh thông) nghề nghiệp của KTV/nhóm kiểm toán (Chuyên sâu) | |||
Nhóm nhân tố thuộc về KTV/nhóm kiểm toán | |||
Kinh nghiệm đối với khách hàng của KTV/nhóm kiểm toán (Kinh nghiệm) | |||
Thái độ nghề nghiệp (sự thận trọng, hoài nghi nghề nghiệp) của KTV/nhóm kiểm toán (Thái độ nghề nghiệp) | |||
Tính chuyên nghiệp của KTV/nhóm kiểm toán khi thực hiện cuộc kiểm toán tại khách hàng (Chuyên nghiệp) | |||
Ý thức tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của các thành viên trong nhóm kiểm toán (Ý thức) | |||
Áp lực mùa vụ kiểm toán đối với KTV/nhóm kiểm toán (Áp lực) | |||
Có thể bạn quan tâm!
- Kiểm Toán Báo Cáo Tài Chính Doanh Nghiệp Niêm Yết Trên Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam
- Một Số Chỉ Tiêu Chủ Yếu Của Các Ctkt Được Chấp Thuận Kiểm Toán Dnny Bctc Các Năm 2010, 2011, 2012
- Kết Quả Kiểm Tra Chất Lượng Trực Tiếp Hàng Năm Đối Với Các Công Ty Kiểm Toán
- Nhóm Nhân Tố Thuộc Về Công Ty Kiểm Toán Ảnh Hưởng Tới Chất Lượng Kiểm Toán Bctc
- Đặc Điểm Đối Tượng Trả Lời Phiếu Khảo Sát
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Chất Lượng Kiểm Toán Bctc Dnny Trên Ttck Việt Nam (Sau Khảo Sát, Xử Lý Trên Spss)
Xem toàn bộ 225 trang tài liệu này.
Sơ đồ 2.2: Nhóm nhân tố thuộc về KTV/nhóm kiểm toán ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán BCTC
Nhóm kiểm toán khi tham gia cuộc kiểm toán cần đảm bảo tính độc lập để không làm ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán, nhóm này bao gồm: KTV hành nghề, các KTV và trợ lý kiểm toán; những người quyết định mức phí kiểm toán, ban giám đốc và người tham gia tư vấn cho hợp đồng, người soát xét chất lượng dịch vụ trước khi phát hành BCKiT.
Hoạt động kiểm toán BCTC DNNY khiến KTV có thể chịu nhiều áp lực do ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều nhóm đối tượng. Do vậy, việc đảm bảo tính độc lập đối với KTV/nhóm kiểm toán và CTKT là một thách thức đối với họ. Tính độc lập càng đảm bảo sẽ giúp KTV, CTKT không chịu áp lực trong việc báo cáo các sai phạm trên BCTC mà KTV phát hiện được trong quá trình kiểm toán và do vậy chất lượng kiểm toán BCTC sẽ được đảm bảo và nâng cao hơn.
Quyết định Số 87/2005/QĐ-BTC qui định Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán, theo đó yêu cầu KTV phải độc lập với khách hàng kiểm toán. Chuẩn mực cũng nêu rõ các cam kết độc lập mà KTV phải chấp hành, theo đó, các thành viên nhóm kiểm toán phải ký vào bản cam kết thể hiện sự cam kết về tính độc lập của mình trước khi tham gia vào nhóm kiểm toán. Luật Kiểm toán độc lập 2010 qui định, để đảm bảo tính độc lập, khách quan:
+ Doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài không được bố trí KTV thực hiện kiểm toán cho một đơn vị có lợi ích công chúng trong 5 năm tài chính liên tục.
+ KTV đã thực hiện kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng chỉ được giữ vị trí quản lý, điều hành, thành viên ban kiểm soát, kế toán trưởng của đơn vị có lợi ích công chúng đó sau mười hai tháng, kể từ ngày kết thúc cuộc kiểm toán.
Khi tính độc lập được cam kết và đảm bảo trong thực tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng KTV có báo cáo hay không, hoặc có kiên quyết yêu cầu DNNY sửa đổi những sai phạm mà họ phát hiện được trong quá trình kiểm toán. Các CTKT lớn thường có đội ngũ KTV có năng lực, khả năng phát hiện các sai phạm trong quá trình kiểm toán hơn, tuy nhiên họ có thể không tôn trọng yêu cầu về tính độc lập dẫn đến khả năng các sai phạm đó không được sửa đổi hoặc báo cáo trước khi công bố các BCTC tới các cổ đông và NĐT.
Trong thực tế, tại Việt Nam, tính độc lập tại các CTKT nhỏ không được đảm bảo do không thực hiện triệt để qui định luân phiên KTV, nguyên nhân khách quan
là do giá phí kiểm toán thấp, hoặc cắt giảm chi phí thực hiện các thủ tục kiểm toán cần thiết để thỏa mãn khách hàng về giá phí, nguyên nhân chủ quan là số lượng KTV được chấp thuận ít [28], [31]. Do vậy nhân tố độc lập được xác định là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán BCTC các DNNY trên TTCK Việt Nam hiện nay.
Các tiêu chí đo lường nhân tố Độc lập của KTV/nhóm kiểm toán gồm:
- Độc lập về quan hệ xã hội với DNNY
- Độc lập về quan hệ kinh tế với DNNY
- Độc lập trong việc thu thập và đánh giá các bằng chứng kiểm toán
- Tuyên bố về cam kết độc lập trước khi tiến hành kiểm toán các DNNY (bao gồm các cam kết về thực hiện qui định luân chuyển KTV, cam kết không đồng thời cung cấp các dịch vụ phi kiểm toán).
2.3.2.2. Trình độ chuyên môn nghề nghiệp của KTV/nhóm KT (Trình độ)
Trình độ chuyên môn thể hiện ở bằng cấp, kinh nghiệm làm việc và liên tục cập nhật kiến thức. KTV phải thực hiện công việc kiểm toán với đầy đủ trình độ chuyên môn cần thiết và không được thể hiện là có những khả năng và kinh nghiệm mà mình không có. Trình độ chuyên môn thể hiện KTV đã vượt qua kỳ thi CPA, hiểu biết về chuẩn mực kế toán, kiểm toán và thường xuyên duy trì, cập nhật, nâng cao kiến thức trong hoạt động thực tiễn, trong môi trường pháp lý và các tiến bộ kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu công việc. Qui định đối với KTV được phép hành nghề tại Việt Nam cũng yêu cầu các KTV phải được được những trình độ nhất định như có chứng chỉ hành nghề và đăng ký hành nghề tại một CTKT. Nhân tố này được xác định có ảnh hưởng quan trọng tới chất lượng kiểm toán BCTC DNNY trên TTCK Việt Nam hiện nay.
Các tiêu chí thể hiện KTV đạt trình độ chuyên môn hành nghề, đó là:
- Có chứng chỉ hành nghề quốc tế (ACCA hoặc CA quốc tế).
- Có chứng chỉ hành nghề Việt Nam.
- Cập nhật kiến thức hàng năm do Hiệp hội ngành nghề tổ chức.
Tổng quan nghiên cứu cho thấy, việc duy trì trình độ chuyên môn yêu cầu quá trình nhận thức liên tục, để KTV thực hiện công việc một cách thành thạo trong các môi trường chuyên nghiệp. Và như vậy, nếu KTV đáp ứng các yêu cầu về trình độ chuyên môn nghề nghiệp sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng kiểm toán.