Đối Với Hội Kiểm Toán Viên Hành Nghề Việt Nam Vacpa


đỡ của các chuyên gia, tổ chức nước ngoài và quốc tế. Đội ngũ những người hành nghề kế toán, kiểm toán tại Việt Nam cũng ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng. Việt Nam cũng đã trở thành thành viên của nhiều liên đoàn, hiệp hội quốc tế như Liên đoàn kế toán quốc tế IFAC, Liên đoàn kế toán các nước Asean AFA,…Cho đến nay, khung pháp lý dịch vụ kế toán, kiểm toán dần được phát triển và hoàn thiện, được thể hiện qua các văn bản quy phạm pháp luật sau:

- Quyết định Số 480/2013/QĐ-TTg ngày 18/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược kế toán – kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn 2030

- Luật Kế toán năm 2015

- Luật quản lý thuế năm 2006

- Luật Kiểm toán độc lập năm 2011, là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam, có hiệu lực từ năm 2012 đã tạo ra khung pháp lý cho thị trường dịch vụ kiểm toán

Bên cạnh đó, hiện nay Bộ Tài chính cũng đang triển khai biên dịch bộ chuẩn mực lập BCTC quốc tế với mục tiêu giúp cho các DN và các công ty KTĐL Việt Nam có được đầy đủ hơn kiến thức và sự am hiểu về bộ chuẩn mực này và đạt mục tiêu cơ bản đến năm 2025-2030 các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán của Việt Nam sẽ áp dụng IFRS và khuyến khích các doanh nghiệp khác áp dụng. Tuy nhiên, về lâu dài thì Nhà nước cần có những hoạt động để củng cố hơn nữa bộ máy quản lý về kế toán – kiểm toán như: nghiên cứu thành lập Hội đồng kế toán Việt Nam, Ủy ban Chuẩn mực kế toán Việt Nam, Ủy ban Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam,...với những chuyên gia có kiến thức chuyên sâu và kinh nghiệm, thực sự độc lập và chuyên trách trong việc biên dịch/soạn thảo các chuẩn mực liên quan kết hợp với đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm và các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực để hoàn thiện xây dựng, phát triển một hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán tiệm cận với quốc tế.

Khung pháp lý để phát triển dịch vụ kiểm toán BCTC là nội dung đã được rà soát trong một vài nghiên cứu và đã có đề xuất cụ thể. Tuy nhiên, những cuộc rà soát này không nhiều và chưa thực sự có tác động mạnh đến thị trường, trong đó phần lớn thường đề cập đến đối tượng là doanh nghiệp – người mua chứ chưa thực sự thúc đẩy sự phát triển của nhà cung cấp. Dịch vụ kế toán, kiểm toán là lĩnh vực mà khung pháp lý cần được rà soát để có những tác động mạnh và thúc đẩy sự phát triển của thị trường.

Một trong những kết quả nghiên cứu của LATS này cho thấy vai trò của năng lực nhân sự kiểm toán của DNKT và tính chuyên nghiệp của DNKT/KTV có tác động đến thời gian kiểm toán. Những nhân tố này thuộc về DNKT trong việc tổ chức, quán lý và


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.

năng lực của DNKT. Tuy nhiên, cũng cần có những chế tài từ phía nhà nước để tạo nên những động lực và cả những yêu cầu để giúp cho các DNKT thực sự phát triển bền vững không chỉ về số lượng mà về chiều sâu chuyên môn và sự chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu đã cho rằng giá phí kiểm toán là một trong những nội dung yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến dịch vụ kiểm toán. Đặc biệt, bối cảnh thị trường kiểm toán Việt Nam với sự cạnh tranh khốc liệt có sự chênh lệch lớn về phí kiểm toán giữa các hãng. Nhiều DNKT nhỏ hoặc mới thành lập đưa ra mức phí rất thấp khiến cho nhiều công ty kiểm toán phải hạ giá phí xuống mức thấp không đảm bảo được chất lượng, trong đó có không ít công ty kiểm toán nước ngoài cũng phải hạ mức phí xuống thấp tại thị trường Việt Nam. Cụ thể, khi phân tích số liệu về doanh thu và số lượng khách hàng trong tài liệu hợp tổng kết kết quả hoạt động KTĐL do VACPA tổng hợp, nếu lấy doanh thu của các công ty kiểm toán chia cho số lượng khách hàng để tính doanh thu trung bình trên mỗi khách hàng cho thấy rằng có sự chênh lệch rất lớn giữa các DNKT, thậm chí có một số công ty doanh thu trung bình chỉ dưới 20 triệu đồng. Đặc biệt, những DN này có số lượng khách hàng khá lớn. Trong năm 2018, DN này có trên 130 khách hàng nhưng doanh thu chưa đến 1,7 tỷ và chỉ có 13 nhân viên chuyên nghiệp và 5 KTV hành nghề và rất nhiều DNKT có tình trạng tương tự trên. Với mức phí thấp, mà thời gian kiểm toán là một trong những yếu tố, cơ sở hình thành nên mức phí kiểm toán sẽ không thể đảm bảo đủ thời lượng để thực hiện kiểm toán duy trì với chất lượng cao. Những công ty như này cho thấy nếu tính số lượng khách hàng và số lượng nhân viên kiểm toán và KTV hành nghề sẽ thấy được sự quá tải quá lớn về thời gian kiểm toán của nhân viên. Điều này dẫn đến những câu hỏi đáng ngại về chất lượng cung cấp dịch vụ kiểm toán. Chính vì vậy, các cơ quan quản lý cần ban hành khung pháp lý liên quan đến KTĐL, cụ thể là giá phí kiểm toán, thực hiện đấu thầu kiểm toán và quản lý chặt chẽ quy trình xét chọn phí kiểm toán công khai minh bạch nhằm hạn chế tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong kiểm toán. Và hơn hết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải có những quy định chặt chẽ về điều kiện và quy định về số lượng khách hàng được phép thực hiện so sánh với tương quan về năng lực nhân sự kiểm toán của DNKT.

Song song với đó, Bộ Tài chính tiếp tục thực hiện chủ trì và trực tiếp triển khai các chiến lược phát triển kế toán – kiểm toán trên các phương diện. Thứ nhất, cụ thể hóa nội dung chiến lược theo từng giai đoạn và tiếp tục là đầu mối huy động tập hợp lực lượng tham gia nghiên cứu, soạn thảo văn bản pháp luật, các chuẩn mực kế toán – kiểm toán, chế độ kế toán theo hướng tiếp cận và hòa hợp với thông lệ quốc tế. Thứ hai, triển khai mạnh mẽ hơn đề án áp dụng và công bố áp dụng chuẩn mực BCTC quốc tế IFRS và những hướng dẫn áp dụng, thực hiện việc cập nhật hệ thống chuẩn mực kế toán Việt

Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến thời gian kiểm toán báo cáo tài chính do các công ty kiểm toán độc lập thực hiện tại Việt Nam - 20


Nam theo thông lệ quốc tế. Thứ ba, sát sao trong việc theo dõi, kiểm tra, thực thi chính sách, chế độ kế toán và nhanh chóng phát hiện những vướng mắc khó khăn của các đơn vị để kịp thời giải quyết. Thứ tư, thực hiện việc quản lý nghề nghiệp và hỗ trợ các DN cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán phát triển. Thứ năm, trợ giúp các tổ chức nghề nghiệp, Câu lạc bộ kế toán trưởng và chủ trì các quan hệ phối hợp trong quá trình triển khai các hoạt động; tăng cường phối hợp với các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức trong nước, quốc tế và tranh thủ nguồn lực hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm của các chuyên gia trong hoạt động nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cả về số lượng và chất lượng.

Để đảm bảo tính minh bạch, trung thực của các thông tin tài chính được công bố, đặc biệt đối với các công ty đại chúng, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần xây dựng quy trình kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện chuẩn mực và chế độ kế toán để có những hoạt động kiểm tra giám sát nhất quán. Đồng thời phải có những chế tài xử phạt đủ răn đe, xử phạt nghiêm minh với các hành vi gian lận trong việc lập và công bố BCTC của đơn vị có lợi ích công chúng với mục đích thao túng thị trường, thao túng lợi nhuận,...nhằm mục đích lừa dối nhà đầu tư, chủ nợ. Đối với các DNKT/KTV có những bằng chứng về những lỗi vi phạm đạo đức nghề nghiệp như bất cẩn, vi phạm tính độc lập,...hoặc không tuân thủ đúng quy trình kiểm toán theo các chuẩn mực hướng dẫn,...gây thiệt hại cho người sử dụng cũng cần phải có những chế tài xử lý nghiêm minh hơn để bảo vệ vị trí, niềm tin và danh tiếng của nghề nghiệp.

KTĐL với vai trò cung cấp sự đảm bảo hợp lý về độ tin cậy của các thông tin tài chính, giúp cho những người sử dụng có thể gia tăng niềm tin vào các BCTC được công bố để góp phần trong việc đưa ra các quyết định kinh tế hữu ích vì vậy dịch vụ kiểm toán cần được thực hiện có chất lượng cao. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, niềm tin vào chất lượng của dịch vụ này không chỉ tại Việt Nam mà trên thế giới đã bị lung lay tương đối nhiều. Sự thất bại kiểm toán của nhiều DNKT xuất phát từ một trong những nguyên nhân như đã nêu ở thực trạng tại chương 4 là chất lượng kiểm toán còn thực sự là một câu hỏi nghi vấn mà nguyên nhân xuất phát rất nhiều từ sự quá tải của nhiều DN, do năng lực nhân sự và sự thiếu kinh nghiệm của KTV,...khi số giờ làm việc không đủ để có thể thực hiện quy trình kiểm toán theo đúng như chuẩn mực. Tại nhiều nước phát triển trên thế giới và trong khu vực, KSCL kiểm toán là một vấn đề được quan tâm nghiên cứu và triển khai. Ở Việt Nam các cơ quan nhà nước đã có những nhận thức về tầm quan trọng của việc KSCL kiểm toán, tuy nhiên để thực hiện và kiểm soát các DNKT trong việc cung cấp dịch vụ có chất lượng vẫn còn là một khó khăn. Để có thể thực hiện được chiến lược mở rộng hơn nữa đối tượng các DN phải thực hiện kiểm toán


BCTC hàng năm, thì các cơ quan nhà nước cũng cần có những chiến lược để kiểm soát các DNKT cung cấp dịch vụ có chất lượng. Qua phân tích thực trạng thì sự quá tải về khối lượng công việc đối với các KTV hiện nay và dẫn đến thời gian kiểm toán cần thiết để thực hiện một hợp đồng kiểm toán không thể đảm bảo và là một trong những nguyên nhân gây ra những lỗi bất cẩn trong kiểm toán hoặc không đầy đủ quy trình, lưu hồ sơ không đầy đủ,...dẫn đến những kết luận kiểm toán còn chưa thực sự phù hợp. Do đó, hơn hết thì việc tăng cường KSCL KTĐL tại Việt Nam từ phía các cơ quan quản lý và từ phía các công ty kiểm toán là nhiệm vụ hết sức quan trọng, thực chất chứ không phải mang tính hình thức. Việc tăng cường này, các cơ quan quản lý như Bộ Tài chính cần có những biện pháp vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính khích lệ để các DNKT có ý thức tự giác trong việc tuân thủ các yêu cầu đảm bảo KSCL kiểm toán. Và khi việc KSCL kiểm toán được thực hiện một cách nghiêm túc thì kết quả của dịch vụ kiểm toán mới tạo được niềm tin từ người sử dụng.

Những giải pháp để nâng cao KSCL kiểm toán có thể được thực hiện trong toàn bộ lĩnh vực kiểm toán, cho từng cuộc kiểm toán và ở nhiều cấp độ, kết hợp nhiều cách thức khác nhau. Đối với các cơ quan quản lý, cần hoàn thiện quy chế KSCL hoạt động KTĐL; có các quy định và chế tài xử lý nghiêm về các hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình cung cấp dịch vụ kiểm toán, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, các quy định này cần phải rõ ràng, xử phạt nghiêm minh, mang tính ngăn chặn, răn đe; và như trên đã trình bày, việc hoàn thiện hệ thống chuẩn mực kế toán - kiểm toán cùng các chuẩn mực về kiểm soát, đánh giá KSCL kiểm toán là một điều kiện cần để các đơn vị áp dụng.

Bởi các cơ quan quản lý sẽ là đơn vị đứng đầu và quản lý nghề nghiệp kế toán, kiểm toán là những ngành nghề đòi hỏi chuyên môn cao và có hiểu biết thực tế, chính sách sử dụng và tuyển dụng nhân sự của các cơ quan như Bộ Tài chính cần có cơ chế thích hợp để thu hút được chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực và có khả năng thực hiện được nhiệm vụ quản lý, giám sát hành nghề kế toán, kiểm toán, ban hành chuẩn mực.

Với các Bộ, ngành và địa phương cần có trách nhiệm phối hợp với BTC tổ chức triển khai thực hiện chiến lược, tham gia các hướng dẫn thực hiện phù hợp với đặc thù ngành, lĩnh vực và địa phương của mình.

5.3.2 Đối với Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam VACPA

Như các nội dung đã phân tích ở trên, thực tế hiện nay còn nhiều vấn đề tồn tại đối với hoạt động KTĐL tại Việt Nam. Sau đây là một số khuyến nghị có liên quan đến


hoạt động của Hội nghề nghiệp của Luận án từ những phân tích thực nghiệm và thực trạng hoạt động nghề nghiệp:

5.3.2.1 Nâng cao vai trò, vị thế của Hiệp hội nghề nghiệp VACPA

Kiểm toán và các hoạt động cung cấp dịch vụ đảm bảo khác là nghề chuyên nghiệp, đòi hỏi người tham gia hành nghề phải có đầy đủ kiến thức chuyên môn, kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp. Sản phẩm của nghề nghiệp này có ảnh hưởng rất nhiều đến những người sử dụng, vì vậy họ cần có hiệp hội nghề nghiệp có vai trò đứng ra quản lý, hoặc thay mặt chính phủ quản lý, giám sát hoạt động hành nghề. Ở các quốc gia phát triển như Mỹ, Anh, Nhật Bản, Singapore, Australia…vai trò của Hiệp hội nghề nghiệp là rất lớn và mạng lưới thành viên của họ rất đông đảo và có tiếng nói. Tuy nhiên, mặc dù hiện nay VACPA đã có nhiều sự phát triển và trọng lực tiếng nói đã nhiều lên, nhưng thực sự vẫn còn chưa đảm bảo hết được vai trò vốn có của Hội. Chính vì vậy, để giúp cho hoạt động KTLĐ tại Việt Nam phát triển và khẳng định được vị thế hơn nữa, Nhà nước và Chính phủ, cụ thể là Bộ Tài chính nên trao nhiều hơn vai trò, trách nhiệm cũng như tiếng nói dành cho VACPA. Bên cạnh đó, các hiệp hội nghề nghiệp về kế toán, kiểm toán của Việt Nam nên thúc đẩy hơn nữa việc mở rộng quan hệ, hợp tác quốc tế và nâng cao vị thế, vai trò của ngành kế toán, kiểm toán tại Việt Nam. Cụ thể, VACPA có thể tham gia là thành viên chính thức của các diễn đàn về quản lý KTĐL trên thế giới và khu vực như Diễn đàn quốc tế các cơ quan quản lý KTĐL (IFIAR) và nghiên cứu nhiều hơn mô hình của các nước phát triển để vận dụng vào Việt Nam về xây dựng kỹ thuật nghiệp vụ kế toán, kiểm toán; phát triển dịch vụ kế toán – kiểm toán; mô hình đào tạo – thi – cấp chứng chỉ hành nghề.

Đặc biệt, kỳ thi lấy chứng chỉ KTV Việt Nam cần được cải tiến nhiều hơn về nội dung và cách thức thi cập nhật với xu hướng phát triển của các hiệp hội nghề nghiệp quốc tế, tổ chức nhiều đợt thi trong năm hơn nữa để tạo điều kiện cho việc tham gia kỳ thi linh hoạt, chủ động cho những ứng viên, từ đó xây dựng được đông đảo hơn nguồn lực kiểm toán cho thị trường. Về chương trình đào tạo chứng chỉ KTV Việt Nam cần được hiện đại hóa và đưa vào nhiều hơn các tình huống thực tế, với chiến lược áp dụng chuẩn mực IFRS tại Việt Nam thì nội dung thi của chương trình CPA Việt Nam cần phải có các nội dung liên quan đến chuẩn mực kế toán quốc tế,...Với các chương trình thi chứng chỉ của các hiệp hội nghề nghiệp trên thế giới, đạo đức nghề nghiệp được đánh giá rất cao và chiếm nội dung trong nhiều môn học và thi (như các cấp độ kế toán, kiểm toán,...) và đồng thời cũng là một bài thi riêng. KTV muốn đạt chứng chỉ kế toán công chứng thì yêu cầu họ thực sự nắm rất chắc chắn về nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp, các tình huống có thể làm cho KTV bị vi phạm chuẩn mực đạo đức và những biện pháp phòng ngừa,...Từ đó nâng cao chất lượng và giá trị của chứng chỉ CPA của Việt Nam so


với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Trong điều kiện hiện nay, có rất nhiều tổ chức nghề nghiệp lâu đời và uy tín trên thế giới đã có văn phòng đại diện tại Việt Nam như ICAEW, ACCA, CPA Australia, CIMA,...với những cam kết và chiến lược hỗ trợ phát triển nghề nghiệp kế toán – kiểm toán cho Việt Nam như hiện nay, các hiệp hội nghề nghiệp của Việt Nam cần có nhiều chiến lược, kế hoạch hành động hơn nữa để tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức nghề nghiệp quốc tế về kế toán, kiểm toán và các tổ chức phi chính phủ trong việc hỗ trợ các dự án triển khai nghiên cứu và thực hiện đổi mới mô hình quản lý nghề nghiệp cũng như các kỹ thuật chuyên môn nghiệp vụ kế toán – kiểm toán nhiều hơn nữa.

5.3.2.2 Nhu cầu cần thiết triển khai xây dựng Bộ Chỉ số Chất lượng kiểm toán

Như phân tích ở các chương trước, việc xây dựng một bộ chỉ số chất lượng kiểm toán của Việt Nam là cần thiết. Bởi chất lượng kiểm toán phải được ưu tiên hàng đầu cho hoạt động kiểm toán và cung cấp dịch vụ đảm bảo. Mặc dù chất lượng kiểm toán đã được đề cập rất nhiều, nhưng thực sự đây vẫn là một thang đo khó khăn cho các doanh nghiệp cũng như Hiệp hội. Vì vậy, nếu xây dựng Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán sẽ giúp cho nhiều đối tượng quan tâm có được một thang đo định lượng rõ ràng hơn để đánh giá. Trong bộ chỉ số này, chỉ số về thời gian kiểm toán cũng là một nhân tố quan trọng cần thiết phải đưa vào để đánh giá những nỗ lực thực hiện kiểm toán của công ty và KTV. Số giờ này cũng cần phải chi tiết theo từng giai đoạn kiểm toán, từng cấp độ chuyên môn trong nhóm kiểm toán.

5.3.2.3 Thiết kế, triển khai các bộ công cụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam

Việc ứng dụng công nghệ thông tin và rất nhiều công nghệ được nói đến rất nhiều hiện nay như Dữ liệu lớn (Big data), Phân tích dữ liệu (Data Analytics), Trí tuệ nhân tạo (AI)…vào hoạt động của các doanh nghiệp. Vì vậy, phương thức kiểm toán cũng ngày càng thay đổi và phát triển. Nhiều hãng kiểm toán lớn trên thế giới đã có những giải pháp để có thể ứng dụng được công nghệ từ Dữ liệu lớn vào phân tích dữ liệu giúp cho quá trình phân tích và dự đoán xu hướng, tìm ra những khác biệt và quá trình chọn mẫu của KTV giảm thiểu thời gian, đồng thời tăng số mẫu chọn được kiểm tra lên đáng kể. Rất nhiều hãng kiểm toán quốc tế với nguồn lực mạnh đã đầu tư vào các công nghệ tiên tiến để trợ giúp cho quá trình kiểm toán được thực hiện nhanh hơn và chi nhánh hoặc thành viên tại Việt Nam sẽ được “hưởng lợi” từ sự đầu tư công phu, tốn kém từ hãng toàn cầu. Tuy nhiên, điều này gần như là bất khả thi đối với DNKT Việt Nam với quy mô vốn và nguồn lực còn nhỏ bé. Bởi đặc điểm và những quy định khắt khe trong việc thành lập và yêu cầu về thành viên góp vốn trong các DNKT để


đảm bảo tính độc lập, khách quan nên việc để có được nguồn đầu tư và nguồn lực tài chính lớn mạnh cho các DNKT hoàn toàn của Việt Nam là rất khó khăn. Do đó, các DNKT vừa và nhỏ của Việt Nam rất cần có sự hỗ trợ từ phía hiệp hội nghề nghiệp và cơ quan quản lý để giúp cho quá trình kiểm toán được thực hiện một cách hiệu quả nhất có thể.

Hiện nay, VACPA đã xây dựng được bộ hồ sơ kiểm toán mẫu và hệ thống Ebook như là thư viện tài liệu tham khảo cho các KTV và những người hành nghề. Những công cụ trên thực sự hữu ích và giúp cho các DN Việt Nam thuận tiện hơn trong quá trình làm việc. Với những thành tựu như vậy, Luận án cũng mạnh dạn đề xuất VACPA nên có những hoạt động huy động hoặc những dự án phát triển hơn nữa xây dựng những gói trợ giúp công nghệ,…cho DNKT Việt Nam để thực hiện hiệu quả hơn dịch vụ kiểm toán.

5.3.3 Đối với các doanh nghiệp kiểm toán và kiểm toán viên

Kiểm toán là nghề nghiệp đặc thù, đòi hỏi các DN phải tạo dựng được niềm tin đối với xã hội và đặc biệt đối với khách hàng và những người sử dụng sản phẩm của họ. Theo đuổi mục tiêu chất lượng kiểm toán luôn là một yêu cầu nhưng cũng là một quyền lợi của các công ty kiểm toán để tạo dựng niềm tin, uy tín của họ trên thị trường. Dó đó, các DNKT cần nỗ lực không ngừng trong việc nâng cao uy tín, niềm tin của mình trong nghề. Việc xây dựng thương hiệu, uy tín là rất khó, nhưng để duy trì và giữ gìn còn khó hơn, bởi vậy trong từng cấp bậc nhân viên, KTV trong các công ty kiểm toán cần phải luôn luôn tuân thủ hàng đầu chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, luôn có những hành vi cư xử phù hợp với nghề nghiệp và luôn luôn cập nhật kiến thức, chuyên môn và kỹ năng, công nghệ để bắt kịp với xu hướng phát triển của thời đại.

Công ty kiểm toán và những người lãnh đạo cần xây dựng một tầm nhìn, sứ mệnh, chiến lược phát triển và những mục tiêu cho hãng phát triển lâu dài, bền vững trên thị trường. Với chiến lược phát triển trong dài hạn, những người lãnh đạo sẽ giảm áp lực về lợi nhuận trước mắt của đơn vị để giữ gìn sự trong sạch cho nghề nghiệp, tạo dựng niềm tin và uy tín của hãng trên thị trường và trong mắt những người sử dụng báo cáo kiểm toán. Trên cơ sở đó, DNKT sẽ xây dựng được cho mình giá trị cốt lõi để thực hiện sứ mệnh, chiến lược của họ.

Liên quan đến kết quả của Luận án, rất nhiều ý kiến chuyên gia đều đồng tình ủng hộ và thống nhất rằng thời gian kiểm toán là một nội dung có vai trò ý nghĩa quan trọng trong quản trị kiểm toán. Để nâng cao uy tín nghề nghiệp, không có biện pháp gì tốt hơn chính là ngày càng đảm bảo và cải thiện chất lượng kiểm toán ở mức độ tốt nhất. Để làm được điều này, việc xác định số giờ kiểm toán cho mỗi cuộc kiểm toán cần phải


thực hiện nghiêm túc ngay từ trước khi ký hợp đồng. Trong đó, KTV cần lưu ý những vấn đề sau:

Thứ nhất, KTV cần phải quan tâm đến mục đích của cuộc kiểm toán là gì, tìm hiểu đặc điểm cấu trúc hoạt động và phạm vi hoạt động của khách hàng là phức tạp hay đơn giản. Nếu quá phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro, trong rất nhiều trường hợp KTV tính toán thời gian có thể thực hiện được với mức phí kiểm toán cụ thể thì liệu thực hiện có đạt hiệu quả về mặt kinh tế mà vẫn đảm bảo được chất lượng hay không. Việc tìm hiểu này rất quan trọng, vì nó giúp cho KTV có thể lường trước được những sự việc bất thường trong tương lai để có thể tính toán những phương án tối ưu cho cuộc kiểm toán. Việc quan tâm đến mục đích, phạm vi của hợp đồng kiểm toán cũng là một nội dung cần thực hiện khi tìm hiểu khách hàng. Điều này ảnh hưởng đến sản phẩm của KTV là gì. Và nếu đặc điểm của các nội dung trên của khách hàng là quá phức tạp, KTV cần cân nhắc và tính toán số giờ kiểm toán phù hợp hoặc quyết định có đồng ý ký kết hợp đồng kiểm toán hay không.

Thứ hai, KTV cần xem xét đặc điểm quá trình lập BCTC của khách hàng, các khoản mục hình thành nên BCTC của khách hàng là gì,…tiêu chuẩn để lập BCTC là gì (chuẩn mực kế toán Việt Nam hay Chuẩn mực lập BCTC quốc tế,…). Quy trình này càng đơn giản thì thời gian kiểm toán càng giảm.

Thứ ba, trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán, KTV cần hết sức chú trọng xem xét đánh giá KSNB của khách hàng để xác định rủi ro kiểm soát là cao hay thấp từ đó dự toán và thực hiện thời gian các thủ tục kiểm toán cho phù hợp. Như đã phân tích ở trên, qua khảo sát và phỏng vấn sâu với nhiều KTV cao cấp, thì nhiều DNKT của Việt Nam thực sự còn chưa chú trọng đến các thủ tục này dẫn đến hiệu quả làm việc không cao.

Tiếp theo, ngay trước khi đồng ý kiểm toán, KTV cần phải đánh giá rất kỹ những nguy cơ có thể dẫn đến đơn vị bị kiện tụng liên quan đến khách hàng. Thực tế, có DNKT đã bị cấm hành nghề kiểm toán các công ty niêm yết và KTV bị phạt treo bằng vì kiểm toán doanh nghiệp chuẩn bị niêm yết, nhưng khách hàng lại là công ty cố tình có nhiều hành vi gian lận để niêm yết và đẩy giá cổ phiếu lên cao gây thiệt hại nặng nề cho nhà đầu tư. Khi rủi ro này được đánh giá là cao, KTV cần cân nhắc xem xét việc có tiếp nhận khách hàng không hay phải từ chối để giữ gìn uy tín nghề nghiệp cho DN.

Bên cạnh những yếu tố làm cho thời gian kiểm toán tăng lên, DNKT cũng cần cân nhắc nhiều yếu tố có thể rút ngắn thời gian kiểm toán để đảm bảo hiệu quả kinh tế của cuộc kiểm toán mà vẫn giữ được chất lượng kiểm toán như tuyển dụng nhân sự một

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/01/2024