Đối Với Các Cơ Sở Đào Tạo Và Viện Nghiên Cứu


cách nghiên túc, có những hình thức khen thưởng, trả lương cho nhân viên phù hợp để tăng động lực làm việc cho nhân viên, thường xuyên có những hoạt động đào tạo, cập nhật kiến thức chuyên môn cho nhân viên, KTV của đơn vị.

Về mặt tổ chức, DNKT nên cấu trúc tổ chức hoạt động thành các bộ phận riêng theo lĩnh vực chuyên môn, ngành nghề của khách hàng cũng có thể tiết kiệm được thời gian phải tìm hiểu lại ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của khách hàng. Công ty cũng cần xây dựng những hình thức đãi ngộ và tăng sự gắn kết, giữ nhân viên kiểm toán làm việc gắn bó lâu dài với hãng nhiều hơn. Vì đội ngũ nhân viên càng lâu năm thì kinh nghiệm làm việc của họ càng nhiều, cũng giúp cho việc kiểm soát nguồn lực kiểm toán tốt hơn. Đây đồng thời cũng giúp cho công ty giảm bớt chi phí tuyển dụng nhân viên mới, chi phí và thời gian đào tạo nhân viên nhiều hơn. Công ty cũng cần tổ chức và hình thành mạng lưới các chuyên gia có thể sẵn sàng tư vấn cho KTV trong những tình huống đặc thù liên quan đến khách hàng, từ đó cũng giúp cho cuộc kiểm toán không bị kéo dài cho việc tự tìm hiểu về một lĩnh vực, sự kiện đặc thù nào của khách hàng.

Một nội dung quan trọng nữa, công ty kiểm toán cần xây dựng quy trình kiểm toán và giám sát việc thực hiện quy trình đó chặt chẽ hơn nữa. Trong quy trình đó, cần tập trung xây dựng và phân bổ thời gian cho giai đoạn lập kế hoạch và kết thúc kiểm toán vì đây là những giai đoạn quan trọng để quyết định đến hiệu quả của cuộc kiểm toán một cách tổng thể. Công ty kiểm toán cần nâng cao hiệu quả của khâu lập kế hoạch và bố trí nhân sự một cách hợp lý để cuộc kiểm toán được thực hiện với thời gian hợp lý.

Cần phải có những biện pháp để phối hợp chặt chẽ giữa công ty kiểm toán và khách hàng kiểm toán; lựa chọn chiến lược/phương pháp kiểm toán phù hợp; áp dụng phần mềm kiểm toán trong công việc sẽ giảm nhiều thời gian kiểm toán, tránh mất thời gian nhàn rỗi; xây dựng các mẫu giấy tờ làm việc có thể sử dụng chung cho nhiều hợp đồng kiểm toán để tránh mất thời gian về mặt trình bày và xử lý dữ liệu. KTV cần thường xuyên trao đổi với khách hàng để giải quyết nhanh các vướng mắc trong quá trình kiểm toán và tìm đúng nhân sự chính ở đơn vị được kiểm toán để được giải đáp các vướng mắc một cách nhanh nhất.

Với kết quả của Luận án đưa ra cho thấy trong quá trình kiểm toán, yếu tố về kinh nghiệm, tính chuyên nghiệp của DNKT có ảnh hưởng lớn đến thời gian kiểm toán và chất lượng kiểm toán. Tuy nhiên, một đặc thù của ngành kiểm toán đó là sự “nhảy việc” diễn ra rất nhiều và là đặc thù của các công ty kiểm toán không chỉ ở các công ty kiểm toán nhỏ mà cả các công ty kiểm toán Big4. Vì vậy, các DNKT cần phải có những chiến lược, những chính sách gắn kết người lao động làm việc lâu dài để xây dựng chất


lượng dịch vụ và danh tiếng cho các công ty. Như đã trình bày trong phần các lý thuyết nền tảng ở chương 2, công ty kiểm toán có thể vận dụng lý thuyết quản trị dựa trên nguồn lực và lý thuyết DN từ góc nhìn tri thức. Điều quan trọng của một DN đứng trước những thách thức về cạnh tranh, đặc biệt là khi nền tảng hoạt động của DN dựa vào yếu tố con người rất lớn chính là việc xây dựng được lợi thế cạnh tranh bền vững cho DN. Dựa trên lý thuyết này, các DNKT trước tiên cần tập trung phát triển các yếu tố bên trong DN đảm bảo có giá trị, hiếm (rare), không thể bắt chước và không thể thay thế. Và ở đây, nguồn lực về con người là trung tâm của sự phát triển bền vững. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thay đổi việc làm của người lao động như: lương thưởng, áp lực công việc, cơ hội đào tạo, phát triển bản thân và môi trường văn hóa công sở, trong đó cơ hội đào tạo, phát triển bản thân và môi trường văn hóa công sở có thể sẽ là những yếu tố “hiếm” tạo nên sự khác biệt cho các DN. Ban lãnh đạo các DNKT cần có những những chiến lược để xây dựng cho DN của mình một “phông văn hóa” có thể gắn kết được người lao động, tạo cho họ trách nhiệm gắn bó và phát triển DN mạnh hơn với những cơ hội đào tạo và phát triển bản thân rõ ràng, từ đó họ có ý thức hơn trong các công việc được giao và gán bó dài lâu với DN. Thực tế, đây là bài toán vô cùng khó khăn với các công ty kiểm toán, nhưng nếu công ty thực hiện được việc “giữ chân” nhân viên thì con đường phát triển bền vững của DN mới được đảm bảo, từ đó chất lượng dịch vụ mà DN cung cấp được nâng cao và uy tín trong một thị trường cạnh tranh mới được xây dựng vững chắc. Các học giả đã đưa ra những yếu tố thuộc về nguồn vốn con người trong một đơn vị là sự đào tạo, kinh nghiệm, khả năng đánh giá, trí tuệ, các mối quan hệ, tri thức của các cá nhân bên trong DN. BGĐ công ty kiểm toán có tập trung các nhóm nguồn lực để tạo ra lợi ích từ mối quan hệ như đẩy mạnh hoạt động trao đổi tri thức, truyền đạt nhiều hơn kinh nghiệm, kiến thức về ngành nghề, kỹ thuật kiểm toán và giải thích sâu hơn những vấn đề về chuẩn mực, chế độ kế toán,... trong công việc hướng tới quá trình cùng học với nhau, tạo ra mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó trong DN từ đó làm cho người lao động có thêm niềm tin và gắn kết vào DNKT, vào công việc mà họ đang làm. Bên cạnh đó, nghề nghiệp kiểm toán cũng đòi hỏi cần có sự giao tiếp và mối quan hệ tốt đẹp với chính khách hàng mà họ cung cấp dịch vụ. Do đó, cũng dựa trên lý thuyết quản trị dựa trên nguồn lực thì một nguồn lực vô hình nữa là sự hiểu nhau giữa hai DN đối tác, nếu hai DN có thể hiểu nhau tốt hơn thì hiệu quả thông tin và làm việc giữa hai bên sẽ được truyền tải và nâng cao. Đây là một yếu tố quan trọng trong quá trình kiểm toán, vì KTV cần phải có được các thông tin cung cấp từ khách hàng để thu thập bằng chứng kiểm toán. Việc hiểu sâu sắc và rõ ràng về khách hàng cũng là yếu tố giúp cho thời gian kiểm toán của KTV thực sự được phân bổ và sử dụng hiệu quả. Do đó, việc tìm hiểu về đặc điểm, quy mô hoạt động và KSNB của khách hàng có ý nghĩa


quan trọng đối với quá trình kiểm toán. Với một trong những gợi ý của lý thuyết quản trị dựa trên nguồn lực đó là bảo vệ tri thức trong phạm vi DN để duy trì lợi thế cạnh tranh và việc chia sẻ tri thức với đối tác tạo ra lợi ích cộng sinh nhờ mối quan hệ tập trung vào chất lượng đối tác cho thấy khi KTV nắm rõ về khách hàng cộng với những tri thức có được và chia sẻ với khách hàng, đánh giá điểm mạnh, yếu của hệ thống, quy trình của khách hàng từ chính những kinh nghiệm và tri thức mà KTV có được sẽ giúp mối quan hệ tốt hơn giữa KTV và khách hàng một cách khách quan. Điều này cũng giúp cho hợp đồng kiểm toán được thực hiện một cách hiệu quả, hiệu lực.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.

Kết quả nghiên cứu của LATS cũng đề cập đến tầm ảnh hưởng của năng lực nhân sự kiểm toán của DNKT; tính chuyên nghiệp của DNKT và KTV, vì vậy nếu DNKT kiểm soát tốt các nguồn lực sẽ thúc đẩy việc lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán với thời gian kiểm toán chặt chẽ, hợp lý hơn. Với lý thuyết DN từ góc nhìn tri thức (KBV), mà theo quan điểm của Grant thì tri thức là nguồn lực sản xuất áp đảo trong việc đóng góp vào giá trị gia tăng của DN trong đó tri thức bao gồm thông tin, bí quyết, công nghệ và kỹ năng và cá nhân là đại lý chính trong sáng tạo tri thức. Cũng với quan điểm của Grant thì khả năng học hỏi của mỗi cá nhân là hạn chế, vì vậy đòi hỏi cần phải có sự chuyên môn hóa tăng cường vào chiều sâu của tri thức. Để DN tồn tại thì cần phải có môi trường để cá nhân tích hợp tri thức chuyên môn của họ trong việc sản xuất và cung cấp sản phẩm, dịch vụ. Đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kiểm toán thì lý thuyết KBV này có nhiều mặt hữu ích trong việc áp dụng quản lý DNKT tốt hơn, bởi con người và tri thức con người là yếu tố góp phần chính trong sự thành công của công ty kiểm toán. Việc tích hợp tri thức này được thực hiện qua các cơ chế: từ quy định chỉ thị; trình tự quy trình; thói quen và qua làm việc nhóm. Do đó, khi kết hợp lý thuyết này vào quản lý DNKT, để cho DN thực sự phát triển theo chiều sâu và có tính bền vững, các DNKT cần thực hiện việc trao đổi thông tin, trao đổi kinh nghiệm theo chiều sâu tri thức, ví dụ như trao đổi về quy trình kiểm toán, tìm hiểu về một nhóm khách hàng kinh doanh cùng lĩnh vực (ngân hàng, bảo hiểm, năng lượng,...), chia sẻ các chính sách, chuẩn mực, chế độ,...có liên quan đến lĩnh vực đó để giúp cho các thành viên của cuộc kiểm toán nắm rõ hơn về quy trình, có kiến thức chuyên sâu hơn từ đó thúc đẩy cuộc kiểm toán được thực hiện hiệu quả. Các DNKT cần có chính sách để nâng cao chất lượng đội ngũ lao động, chất lượng dịch vụ bằng việc đẩy mạnh hoạt động đào tạo và cập nhật kiến thức theo các hình thức như tổ chức tại công ty, cập nhật kiến thức do hội nghề nghiệp tổ chức, mở rộng quan hệ với các hiệp hội nghề nghiệp quốc tế để tạo cơ hội cho nhân viên được tham gia đào tạo và thi các chứng chỉ kế toán công chứng quốc tế,...Về chính sách tuyển dụng cần có cơ chế để tuyển dụng được nhân sự có kinh nghiệm, chuyên sâu và


Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến thời gian kiểm toán báo cáo tài chính do các công ty kiểm toán độc lập thực hiện tại Việt Nam - 21

đội ngũ SV mới tốt nghiệp thực sự có chất lượng từ các trường đại học.

Trong xu hướng các DN, tập đoàn lớn ngày càng ứng dụng công nghệ thông tin, Dữ liệu lớn, Phân tích dữ liệu,AI,...trong quy trình sản xuất kinh doanh của mình và bản thân các hãng kiểm toán lớn trên thế giới đã nghiên cứu, triển khai và từng bước áp dụng các công cụ hỗ trợ trong quá trình kiểm toán. Một giải pháp giúp cho các DNKT của Việt Nam có thể được tiếp cận với những công cụ như vậy đó là hoàn thiện quy trình kiểm toán, chất lượng kiểm toán để đủ điều kiện trở thành thành viên chính thức của các hãng kiểm toán quốc tế có uy tín và được tiếp nhận những thành tựu về công nghệ tiên tiến của các hãng này. Đây cũng là con đường nhanh nhất để các DNKT Việt Nam hội nhập với thế giới và cũng để giúp các hãng kiểm toán quốc tế dễ dàng hơn tạo ra sự hiện diện của mình tại thị trường Việt Nam (Nguyễn Mạnh Hùng, 2012). Để được các hãng quốc tế chấp thuận là thành viên, thì DNKT phải trải qua quá trình soát xét, kiểm tra nghiêm ngặt và đảm bảo phải thỏa mãn được các tiêu chuẩn về năng lực nhân viên, cơ cấu tổ chức, mạng lưới khách hàng, chất lượng dịch vụ,...và một công ty kiểm toán đạt được tiêu chuẩn khắt khe của hãng kiểm toán quốc tế danh tiêng thì uy tín và thương hiệu của công ty cũng được khẳng định. Khi trở thành viên hãng quốc tế, DNKT sẽ được hỗ trợ về kỹ thuật, được tiếp cận phương pháp và quy trình kiểm toán hiện đại cùng với bề dày kinh nghiệm và sự đầu tư bài bản, DN của Việt Nam sẽ được chuyển giao hệ thống KSCL chặt chẽ của hãng toàn cầu và các hãng này đều có xây dựng những nguồn dữ liệu và các gói cung cấp dịch vụ theo ngành sẽ giúp cho DNKT Việt Nam chuyên nghiệp hơn trong hoạt động của mình và việc phân bổ nguồn lực thực hiện kiểm toán hiệu quả hơn rất nhiều. Đồng thời, thành viên trong các hãng kiểm toán toàn cầu thường có các chương trình trao đổi, đào tạo vì vậy là cơ hội để các KTV của Việt Nam được trực tiếp tham gia học hỏi và làm việc tại văn phòng kiểm toán tại các nước phát triển hoặc tiếp nhận đội ngũ chuyên gia của hãng quốc tế sang Việt Nam đào tạo, hướng dẫn hoặc tham gia vào quá trình kiểm toán. Tuy nhiên, để được trở thành và duy trì vai trò là thành viên của các hãng uy tín trên thế giới thì bản thân DNKT phải tuân thủ những quy định khắt khe của hãng và là một quá trình có chiến lược dài hạn. Ví dụ, DN muốn trở thành thành viên của hãng kiểm toán quốc tế phải cung cấp 100% dịch vụ chủ yếu về kế toán, kiểm toán, tư vấn, có kinh nghiệm quốc tế và khả năng giao dịch, liên lạc quốc tế; phải có quy trình kiểm soát chất lượng dịch vụ đạt yêu cầu, có đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp; có đội ngũ KTV khá, có kỹ năng ngoại ngữ để tiếp nhận những lợi ích thành viên; có năng lực tài chính để đầu tư kỹ thuật, đào tạo nhân viên theo tiêu chuẩn quốc tế, chi phí chuyên gia, đi học và làm việc tại nước ngoài, nộp lệ phí thành viên và mua bảo hiểm nghề nghiệp,...những khoản chi phí này không hề nhỏ với các


DNKT Việt Nam. Đây thực sự là thách thức lớn với các DN, nhưng với chiến lược dài hạn và vì sự phát triển bền vững, BLĐ các công ty kiểm toán Việt Nam cần có những kế hoạch dài hạn vì một thị trường kiểm toán độc lập vững mạnh. Một số DNKT của Việt Nam cũng đã có những chiến lược đó là sáp nhập từ 2 đến 3 công ty kiểm toán lại để trở thành một chủ thể mạnh hơn về số lượng nhân viên, khách hàng,...mà có thể thỏa mãn một số điều kiện gia nhập các hãng. Đây là một giải pháp khả thi cho các DNKT, tuy nhiên để đạt được điều này, BLĐ các công ty kiểm toán phải thực sự có những đánh giá nghiêm túc sâu sắc, phân tích đầy đủ những thế mạnh và hạn chế để tránh những xung đột về lợi ích sau này. Dẫu vậy, hơn hết thì sự chính trực, nhận thức nghiêm túc và những nỗ lực của chính các DNKT trong việc thực hiện và KSCL kiểm toán vẫn là cách thức và nhân tố chính để các DNKT thành công, tạo và giữ được uy tín của mình trên thị trường. Một trong những yêu cầu cần thiết đối với các DNKT là phải hoàn thiện xây dựng cho mình quy trình KSCL kiểm toán. Việc các công ty kiểm toán tự ý thức xây dựng giải pháp để đảm bảo chất lượng kiểm toán là vô cùng quan trọng và tác động trực tiếp đến chất lượng dịch vụ được cung cấp và góp phần nâng cao niềm tin của người sử dụng.

Bên cạnh đó, các DNKT thuộc nhóm Big4 và các DNKT lớn của Việt Nam cần thể hiện rõ ràng và mạnh mẽ hơn nữa vai trò là cầu nối với Bộ Tài chính trong việc nghiên cứu, tiếp thu các thông lệ kế toán, kiểm toán và tham gia tích cực hơn vào quá trình nghiên cứu, xây dựng các văn bản, chuẩn mực kế toán và kiểm toán.

5.3.4 Đối với các doanh nghiệp

Thái độ hợp tác của khách hàng cũng ảnh hưởng đến thời gian kiểm toán. Cần đảm bảo khách hàng cung cấp đầy đủ tài liệu và các nội dung về hoạt động sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của KTV. Một trong những vấn đề băn khoăn của rất nhiều KTV đó là khách hàng có hợp tác với KTV trong quá trình kiểm toán hay không. Bởi điều này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hợp đồng kiểm toán. Bản thân các khách hàng cần nhận thức được trách nhiệm lập và trình bày BCTC là thuộc về ban giám đốc doanh nghiệp, doanh nghiệp cần chủ động lập BCTC kịp thời, trung thực. Trách nhiệm của KTV và doanh nghiệp kiểm toán là thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán để đưa ra ý kiến nhận xét về tính trung thực, hợp lý của các BCTC xét trên các khía cạnh trọng yếu. Để đưa ra được ý kiến phù hợp, sự phối hợp công việc của khách hàng là rất quan trọng, cụ thể ở đây là việc cung cấp thông tin, tài liệu hỗ trợ KTV trong quá trình kiểm toán và đặc biệt cần có BCTC kịp thời trước khi cuộc kiêm toán chính thức bắt đầu.

Đối với các công ty có lợi ích công chúng cần có những định hướng trong việc


nâng cao chất lượng thông tin tài chính công bố thông qua những quy định về khung pháp lý và nhận thức, đội ngũ nhân sự. Thứ nhất, hiện nay Bộ Tài chính đã có những kế hoạch cụ thể trong đề án áp dụng IFRS tại Việt Nam, theo đó các công ty niêm yết sẽ là khu vực tiên phong trong việc áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế. Vì vậy, thứ nhất các công ty đại chúng cần có những kế hoạch hành động cụ thể trong việc tiếp cận, cập nhật hệ thống chuẩn mực IFRS, các công ty nên thực hiện công bố các BCTC bằng Tiếng Anh,...Thứ hai, nâng cao đội ngũ nhân sự kế toán và thực hiện nhiệm vụ liên quan đến kiểm soát nội bộ để có thể dễ dàng nắm bắt, triển khai áp dụng IFRS một cách chủ động khi có yêu cầu.

Trong quá trình hoàn thiện và áp dụng các quy định, chuẩn mực và chế độ kế toán nếu có các vướng mắc, khó khăn thì các DN cũng cần có những phản hồi kịp thời và tham gia một cách tích cực vào quá trình nghiên cứu, soạn thảo các văn bản, chuẩn mực kế toán và tích cực tham gia đóng góp ý kiến trong quá trình soạn thảo, ban hành các chuẩn mực kế toán, chế độ,...

Các DN cần có những hoạt động phối hợp với các cơ sở đào tạo, hiệp hội nghề nghiệp và tạo điều kiện cho nhân viên tham gia các khóa tập huấn, cập nhật kiến thức, chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán,...để tránh những sai sót trong công việc, khuyến khích nhân viên kế toán hoặc các bộ phận như kiểm toán nội bộ tham gia các chương trình đào tạo kế toán viên công chứng hoặc kiểm toán viên nội bộ quốc tế. Bên cạnh đó, các DN nên tích cực tham gia góp ý cho chính các trường đại học, cơ sở đào tạo về nhu cầu, định hướng, giải pháp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và có những phản hồi về tình hình, chất lượng sinh viên tốt nghiệp từ các trường để các trường có những chỉnh sửa phù hợp.

5.3.5 Đối với các cơ sở đào tạo và viện nghiên cứu

Như kết quả nghiên cứu đã phản ánh, yếu tố thuộc về cá nhân KTV như tính chuyên nghiệp, kinh nghiệm,...sẽ góp phần giảm bớt thời gian kiểm toán, nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm toán hơn. Vì vậy, ngay từ khi đào tạo, các KTV được trang bị những kiến thức, kỹ năng và có những hiểu biết đầy đủ về nghề nghiệp sẽ góp phần rất lớn trong việc nâng cao đội ngũ nhân sự cho các DNKT. Các cơ sở đào tạo giúp ích rất nhiều trong việc cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, có kiến thức và kỹ năng chuyên môn phù hợp. Các cơ sở đào tạo cần xây dựng chương trình đào tạo thống nhất, hài hòa với chương trình đào tạo chung của cả nước và tiệm cận với chương trình quốc tế. Yêu cầu cơ bản của KTV là những kiến thức cơ sở được tích lũy trong quá trình đào tạo, do đó trước hết cần xây dựng một khung chương trình đào tạo thống nhất giữa các trường đại học khối kinh tế, đảm bảo cập nhật, phù hợp vơi chương trình khung quốc gia trong


khu vực. Các Viện nghiên cứu, học viện và các trường đại học thuộc khối ngành kinh tế

- tài chính – kế toán – kiểm toán cần triển khai việc nghiên cứu đổi mới các giáo trình, tài liệu học tập cơ sở ngành và chuyên ngành phù hợp với những thay đổi về nguyên tắc, chuẩn mực, chế độ; tham gia nhiều hơn nữa trong việc nghiên cứu, xây dựng các văn bản, tài liệu kế toán – kiểm toán; phối hợp triển khai thực hiện các văn bản pháp luật trong lĩnh vực kế toán – kiểm toán. Việc đổi mới giáo trình đào tạo theo hướng tích hợp với các chương trình quốc tế, đảm bảo chuẩn đầu ra phù hợp với nhu cầu của các nhà tuyển dụng, đồng thời người học vẫn có được kỹ năng nghiên cứu để phát triển hơn.

Để đạt được chuẩn đầu ra cho người học và giúp sinh viên tốt nghiệp có thể thực hành nghề nghiệp mà không bị bỡ ngỡ thì các trường đại học cần phải có sự gắn kết chặt chẽ với các DN và các công ty kiểm toán, hiệp hội nghề nghiệp của Việt Nam, quốc tế và thường xuyên có những tương tác, trao đổi để tạo nên mối quan hệ vững chắc giúp sinh viên có điều kiện được tiếp xúc với các DN, các công ty kiểm toán và có cơ hội được thực tập nghề nghiệp ngay từ khi là sinh viên năm thứ nhất, thứ hai,...Thông qua mối quan hệ với các DN, hiệp hội nghề nghiệp,...các trường đại học sẽ có được những phản hồi về chất lượng của sinh viên, những điểm mạnh yếu của sinh viên và hoàn thiện nội dung chương trình đào tạo, các kỹ năng cần rèn luyện cho người học. Hiện nay, đã có một số trường đại học đầu ngành như Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Ngoại thương, Học viện Ngân hàng,...đã tích hợp chương trình đào tạo của các tổ chức quốc tế như ICAEW, ACCA vào chương trình đào tạo cử nhân hệ chất lượng cao. Tuy nhiên, số lượng sinh viên được tiếp cận với những chương trình này chưa nhiều do điều kiện về học phí, cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên chưa thể đảm bảo đầy đủ để có thể dạy được số đông. Tuy nhiên, những kết quả khả quan của các chương trình này mang lại cho thấy đây là những hướng đào tạo tích cực và cần phát triển mở rộng trong tương lai đối với các trường đại học đào tạo về kế toán, kiểm toán.

Đối với hoạt động đào tạo, để có thể đổi mới, nâng cao và tích hợp chương trình đào tạo tích hợp với các chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế thì vai trò của đội ngũ giảng viên là rất quan trọng, vì vậy vấn đề đặt ra hiện nay của các trường đại học là cần phải đẩy mạnh và đầu tư để nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên. Giảng viên không chỉ là những người có phẩm chất đạo đức, tư cách tác phong nhà giáo tốt mà còn là những người có kiến thức chuyên môn sâu rộng, có sự am hiểu thực tiễn nghề nghiệp và năng lực nghiên cứu khoa học. Do đó trong mục tiêu chiến lược về đổi mới chương trình đào tạo tiệm cận với quốc tế giúp nâng cao vị thế và chất lượng đào tạo cho sinh viên, các trường đại học cần phải có kế hoạch đào tạo, nâng cao năng lực chuyên môn, năng lực nghiên cứu của đội ngũ giảng viên, tạo điều kiện cho giảng viên không ngừng cập nhật


kiến thức, có khoảng thời gian sắp xếp để đi thực tiễn nghề nghiệp và trau dồi các kỹ năng về ngoại ngữ để có thể lĩnh hội những kiến thức, công nghệ giảng dạy cập nhật trên thế giới. Việc thành thạo ngoại ngữ để phục vụ cho việc nghiên cứu và trao đổi học thuật nên trở thành yêu cầu bắt buộc đối với đội ngũ giảng viên.

Trong tiến trình đào tạo, các cơ sở giáo dục – đào tạo cần xây dựng, phân bổ thời lượng các môn học chuyên ngành và một số môn cơ sở ngành có sự trao đổi, thảo luận và nói chuyện với các chuyên gia từ các DN, công ty kiểm toán, cơ quan quản lý và hiệp hội nghề nghiệp hoặc tham gia các hoạt động ngoại khóa để sinh viên có được cơ hội giao lưu, học hỏi và có cái nhìn rõ hơn về nghề nghiệp mà mình theo đuổi. Luận án đã tham khảo về chương trình đào tạo tại một số trường của Anh Quốc, Singapore hay Australia chuyên ngành kế toán thì nhận thấy, rất nhiều trường có vị thế cao tại các quốc gia này áp dụng tích hợp các chương trình đào tạo của ICAEW, ACCA,...trong nội dung các môn học và được các tổ chức nghề nghiệp uy tín công nhận xét miễn môn học và sinh viên sau khi tốt nghiệp chỉ cần hoàn thiện một số môn ở cấp độ chuyên nghiệp hoặc nâng cao sẽ nhận được chứng chỉ danh giá. Và các trường này cũng có mối quan hệ hợp tác ba bên giữa trường đại học – hiệp hội nghề nghiệp – doanh nghiệp (kiểm toán, mà chủ yếu là các công ty Big4) trong đó có sinh viên ngay từ năm thứ nhất đã có điều kiện để tham gia kỳ thực tập tại doanh nghiệp để tìm hiểu một cách tổng thể về môi trường làm việc, về nghề nghiệp và tích lũy dần thông qua cấp độ thực tập được nâng dần qua các năm. Khi tốt nghiệp, các tổ chức nghề nghiệp như ICAEW công nhận sinh viên được miễn từ 9 đến 12 môn học trong 15 môn học (ví dụ ĐH Nottingham, ĐH SMU Singapore được miễn 12/15 môn học của chứng chỉ kế toán viên công chứng ACA của ICAEW), đồng thời sinh viên sẽ vào làm việc tại các hãng kiểm toán quốc tế và được tạo điều kiện vừa làm vừa hoàn thành tiếp các môn còn lại. Với cách thức đào tạo như vậy trao cho sinh viên rất nhiều cơ hội để phát triển nghề nghiệp, mang lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia vào quá trình đào tạo. Và đối với DNKT hay người học đã tiết kiệm được rất nhiều thời gian để tích lũy kinh nghiệm và làm quen với môi trường thực tiễn hành nghề và công ty kiểm toán cũng tuyển dụng được đội ngũ SV mới tốt nghiệp nhưng đã có chuyên môn vững vàng và đã có thời gian trải nghiệm, làm quen với môi trường làm việc. Điều này cũng rất phù hợp với kết quả nghiên cứu của LATS đối với nhân tố kinh nghiệm và tính chuyên nghiệp của DNKT /KTV góp phần làm giảm thời gian kiểm toán và giúp cuộc kiểm toán được thực hiện hiệu quả. Đối với các trường đại học Việt Nam, để được các tổ chức nghề nghiệp quốc tế công nhận cho các môn học đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có nhiều, nhưng trong tương lai gần, các trường cần có những chiến lược và hành động để đạt được mục tiêu được các hiệp hội nghề nghiệp công nhận các môn học trong số các môn trong chương trình đào tạo quốc tế của họ. Điều này vừa giúp tăng vị thế của trường đại học và có lợi cho sinh viên trên con đường trở thành các kế toán viên công chứng với danh vị cao quý nhất trong nghề nghiệp.

Xem tất cả 216 trang.

Ngày đăng: 24/01/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí