Từ quá trình thẩm định khách hàng doanh nghiệp kỹ lường, Ngân hàng có thể đưa ra những chính sách cho vay phù hợp với bản thân mỗi doanh nghiệp được thẩm định như thời hạn cho vay, giá trị khoản vay.
- Có những chính sách ưu đãi về lãi suất để Ngân hàng vừa đạt được lợi nhuận và tạo điều kiện cho khách hàng doanh nghiệp trong thời kỳ khó nhằm chế nợ xấu.
Lãi suất được coi là “giá” cả của sản phẩm tín dụng của ngân hàng. Đối với các NHTM “giá mua” vốn chính là chi phí của các yếu tố đầu vào mà chủ yếu là lãi suất huy động. Giá bán sản phẩm chủ yếu là lãi suất cho vay (có thể có thêm phí và chi phí giao dịch). Chênh lệch về giá thành là lợi nhuận của ngân hàng. Đối với khách hàng họ sẽ chọn mức lãi suất nào mang lại nhiều lợi ích cho họ nhất. Lợi ích của khách hàng và của ngân hàng về cơ bản là trái ngược nhau. Vấn đề quan trọng là phải biết kết hợp hài hoà sao cho hai bên cùng có lợi. Tuy nhiên việc xác định mức lãi suất cho vay ra cũng như lãi suất huy động vào lại phụ thuộc vào lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước. Do vậy, PVcomBank cần có chính sách lãi suất đảm bảo đồng thời lợi ích của ngân hàng, của khách hàng và theo luật pháp quy định. Điều này rất khó đạt được và lại càng khó đảm bảo khi Ngân hàng đang chú ý đến việc thu hút khách hàng doanh nghiệp.
Lãi suất của ngân hàng trước hết phải phù hợp với các quy định của Nhà nước, đồng thời cần phải dựa trên nhu cầu của thị trường. Để khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn, Ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam cần xây dựng một chính sách lãi suất linh hoạt với từng khách hàng khách hàng vay vốn, từng khoản vay. Cần có chính sách lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp hợp tác lâu dài như các doanh nghiệp của tập đoàn Dầu khí. Lãi suất của khoản vay là nguồn thu của ngân hàng nhưng lại là chi phí của khách hàng. Do đó giữa ngân hàng và khách hàng luôn có mong muốn trái chiều về lãi suất. Nếu lãi suất cho vay quá cao thì chi phí đầu vào của các doanh nghiệp sẽ tăng cao, lợi nhuận thu được có thể không bù đắp được chi phí dẫn đến tình trạng không trả được nợ, xuất hiện nợ xấu, còn nếu lãi suất cho vay thấp thì có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận của Ngân hàng. Chính vì vậy, lãi suất cần phải được xây dựng trên cơ sở đảm
bảo lợi ích cho ngân hàng và cho khách hàng doanh nghiệp. Ngân hàng cần tiến hành đánh giá và phân loại khách hàng trong từng thời kỳ để có thể có những mức lãi suất khác nhau theo từng tiêu chí nhằm thu hút các doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng và hạn chế nợ xấu khi khách hàng bị áp lực trả nợ quá cao;
Trong điều kiện nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn và tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngân hàng nên có cơ chế về mức lãi suất hợp lý hơn để Ngân hàng vừa đạt được lợi nhuận và tạo điều kiện cho khách hàng doanh nghiệp. Ví du như đối với những khách hàng truyền thống có uy tín lâu năm trong vay trả, sử dụng nhiều dịch vụ của Ngân hàng thì có thể cho vay với mức lãi suất thấp ưu đãi hơn để khuyến khích khách hàng. Với những khách hàng doanh nghiệp mới vay vốn lần đầu, nếu phương án kinh doanh của của doanh nghiệp khả thi ngân hàng có thể xem xét đưa ra mức lãi suất thấp hơn thông thường để có thể khuyến khích khách hàng đến với Ngân hàng. Đây là công tác quan trọng nhằm sàng lọc những khách hàng có quan hệ lâu năm, giữ chân khách hàng cũ đồng thời khuyến khích các khách hàng mới tìm đến Ngân hàng.
Các doanh nghiệp khi vay vốn, vấn đề đặt ra là cần có một cơ chế lãi suất linh hoạt từ phía các ngân hàng. Để góp phần vào việc tạo nguồn vốn cho các KHDN thì Ngân hàng nên áp dụng mức lãi suất linh hoạt theo hướng sau: Với từng đối tượng khách hàng có mức lợi nhuận dự kiến và hệ số rủi ro khác nhau thì có thể áp dụng các mức lãi suất khác nhau nhằm thu hút và giữ khách hàng, lấy lãi suất để làm công cụ kích thích các đối tượng hoạt dộng có hiệu quả, cụ thể là: Với khách hàng quen thuộc, có uy tín, vay trả sòng phẳng thì cơ chế được hưởng một mức lãi suất ưu đãi thấp hơn. Điều đó sẽ góp phần củng cố mối quan hệ lâu dài với khách hàng, vừa khuyến khích cho các khách hàng tăng cường mối quan hệ với Ngân hàng, vừa tích cực làm ăn có hiệu quả, trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng. Tuỳ vào từng lĩnh vực hoạt động, ngành nghề kinh doanh của khách hàng mà có những ưu đãi về lãi suất nhằm kích thích doanh nghiệp trong khu vực, ngành nghề đó phát triển.
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Nợ Quá Hạn Và Nợ Xấu Đối Với Khdn Tại Ngân Hàng
- Bảng Tóm Tắt Biến Độc Lập Của Mô Hình
- Ước Lượng Mô Hình Sau Khi Khắc Phục Các Khuyết Tật
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu của khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Chúng Việt Nam - 12
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu của khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Chúng Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
Ngoài ra có thể tùy từng trường hợp cụ thể như khách hàng đến vay vốn lần đầu tiên thì Ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam có thể giảm lãi suất và có nhiều ưu đãi khác về thời hạn vay hoặc tổng giá trị món vay. Đa dạng hoá các loại hình lãi suất để tạo điều kiện phù hớp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng. Dựa vào từng loại lãi suất và từng kì hạn, khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn khoản vay thích hợp đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của họ đạt hiệu quả cao, đảm bảo trả nợ ngân hàng đúng hạn.
- Một số chính sách tín dụng khác.
Chính sách tín dụng bao gồm các quy định về giới hạn cho vay đối với từng khách hàng, đối với nhóm khách hàng ; quy định về thời gian cho vay, TSĐB vay, các khoản phí dịch vụ, hình thức xử lý nợ có vấn đề và những vấn đề khác có liên quan đến hoạt động tín dụng.
Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế, PVcomBank nên linh hoạt đưa ra các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp nhằm hạn chế nợ xấu như cơ cấu lại thời gian trả nợ đối với các doanh nghiệp, miễn giảm lãi cho doanh nghiệp đang gặp khó khăn nhưng có thiện chí phối hợp với Ngân hàng để thanh toán nợ.
Để đảm bảo mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay, thực hiện việc kiểm soát, hạn chế được rủi ro, phát triển bền vững hoạt động tín dụng, cần phải xây dựng được một chính sách tín dụng phù hợp, thích ứng được với đặc điểm của các NHTM, với môi trường kinh doanh, với thị trường hội nhập như hiện nay. Qua đó, giúp các Ngân hàng phát huy thế mạnh của mình, khắc phục và hạn chế được các điểm yếu nhằm mục tiêu an toàn và sinh lời trong hoạt động kinh doanh của mình.
Theo đó, thực hiện đổi mới các cơ chế, chính sách tín dụng nhằm đảm bảo tăng trưởng tín dụng một cách an toàn, hiệu quả, và từng bước phù hợp với những thông lệ, cũng như chuẩn mực quốc tế. Thủ tục cấp tín dụng điều chỉnh theo hướng đơn giản hóa, sao cho thuận tiện, phù hợp hơn nữa với đặc điểm kinh doanh, các nhóm khách hàng, và các khoản vay, làm giảm đi những chi phí giao dịch, tránh được tâm lý e ngại
của khách hàng khi đến vay vốn của PVcomBank.
Có những chính sách khách hàng phù hợp: thực hiện nhiều ưu đãi với nhóm khách hàng truyền thống như nhóm khách hàng trong lĩnh vực dầu khí, có nhiều khuyến mãi hấp dẫn với nhóm khách hàng tiềm năng... Luôn có những điều chỉnh và theo dõi kịp thời đến thời hạn tín dụng và kì hạn nợ trong kì. Thời hạn tín dụng trung bình càng nhỏ, rủi ro của Ngân hàng càng thấp, càng tăng tính thanh khoản của các khoản tài trợ. Bên cạnh đó cũng cần quan tâm đến chính sách tài sản đảm bảo, thực hiện linh hoạt trong chính sách này để các doanh nghiệp có nhiều cơ hội tiếp cận với nguồn vốn của Ngân hàng hơn.
3.2.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam
Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố sống còn đối với mọi tiến trình phát triển cả về lượng và về chất. Do vậy, để có thể ngăn ngừa và hạn chế nợ xấu của khách hàng doanh nghiệp thì trước hết bộ phận quản trị nguồn nhận lực trên Hội sở chính của Pvcombank phải có một cơ cấu tổ chức và quản lý chặt chẽ và đồng bộ, hợp lý trên cơ sở đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm và luôn bám sát tình hình thực tế. Trong đó, ban lãnh đạo Ngân hàng và cán bộ phụ trách các phòng ban phải là những người năng nổ, sáng tạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Để có đội ngũ nguồn nhân lực như vậy một số vấn đề cơ bản cần giải quyết cụ thể như sau:
Từng bước tiêu chuẩn hoá cán bộ trên cơ sở năng lực, trình độ nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức, đáp ứng được nhu cầu của công tác kinh doanh trong cơ chế thị trường:
+ Đối với cán bộ hoạch định chính sách tín dụng phải là người có trình độ lý luận nghiệp vụ ngân hàng vững vàng, phải có kiến thức kinh tế tổng hợp, có phương pháp nghiên cứu khoa học, am hiểu thị trường và giàu kinh nghiệm thực tế, có khả năng tổng hợp vấn đề. Ngoài ra, cán bộ quản lý phải có kiến thức pháp luật vững chắc và sâu
rộng. Có được những điều đó người cán bộ mới có thể hoạch định được chính sách và hướng giải quyết đúng đắn, hiệu quả, đảm bảo đúng pháp luật. Muốn vậy Ngân hàng thường xuyên phải có các cuộc hội thảo khoa học, có kế hoạch đào tạo nâng cao nghiệp vụ thường xuyên và cụ thể, phải thiết lập được mối quan hệ với các tổ chức, trung tâm nghiên cứu lĩnh vực ngân hàng để có thể tiếp xúc được với những kiến thức mới, đồng thời nắm bắt được những thay đổi trong diễn biến hoạt động của lĩnh vực ngân hàng.
+ Cần có sự trao đổi giữa Khối Khách hàng doanh nghiệp và Khối Quản trị nguồn nhân lực về công tác tuyển dụng cán bộ nhân viên cho từng vị trí cụ thể như thế mới tìm kiếm và tuyển dụng được cán bộ có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ tốt. Hơn nữa, đưa ra những chính sách về lương và thưởng phù hợp với các vị trí để thu hút được nguồn nhân lực tốt và đẩy mạnh tinh thần làm việc của các cán bộ nhân viên.
+ Đối với cán bộ quản lý điều hành hoạt động tín dụng, ngoài những tiêu chuẩn về kiến thức nghiệp vụ cơ bản, cần nhấn mạnh các đặc điểm sau: (1) Phải nắm chắc về pháp luật, đặc biệt là luật kinh tế và luật dân sự; (2) Phải nắm chắc các quy định, thể chế, vận dụng một cách linh hoạt. Phải có khả năng tổng hợp, phân tích các điều đúng, chưa đúng, chưa phù hợp của chế độ, thể lệ để kiến nghị với cấp trên.
+ Đối với đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia giao tiếp với khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam, thẩm định dự án, đề xuất với lãnh đạo ra quyết định, đồng thời theo dõi quá trình sử dụng vốn và thu nợ. Quyết định đúng sai của người lãnh đạo phụ thuộc phần lớn vào đội ngũ này. Do đó ngoài tiêu chuẩn chung là trình độ kiến thức về nghiệp vụ cần đòi hỏi họ là những người trung thực, khách quan, thắng thắn, kiên định rõ ràng, có ý thức bảo vệ tài sản của Ngân hàng. Ngoài trình độ chuyên môn, cán bộ trực tiếp tham gia giao tiếp với khách hàng phải sâu sát thực tế, hiểu biết nhất định về kinh tế thị trường, nắm vững pháp luật và các vấn đề có liên quan. Muốn vậy ngân hàng phải thường xuyên tổ chức kiểm tra kiến thức về nghiệp vụ, pháp luật, tâm lý... và cần có khuyến khích về mặt vật chất.
76
+ Khối Quản trị nguồn nhân lực cần phối hợp với các Khối liên quan như Khối Pháp chế tuân thủ, Khối Khách hàng doanh nghiệp đưa ra bộ khung và các văn bản xử lý nghiêm khắc hơn các trường hợp làm sai quy định gây ảnh hưởng đến Ngân hàng, tránh tình trạng nhân viên thông đồng với khách hàng gây ra nợ xấu.
Chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng, sự đồng đều trong khả năng làm việc và trình độ quản lý điều hành của các cán bộ lãnh đạo ngày càng quan trọng đối với hoạt động của Ngân hàng. Thực hiện đổi mới công tác quản lý cán bộ tín dụng: theo hướng thường xuyên quan tâm tới việc xác định đúng nhiệm vụ chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ tín dụng. Chủ động, tích cực giáo dục cán bộ tín dụng không bị lôi cuốn vào những vấn đề tiêu cực của xã hội, hạ thấp nhân phẩm, hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng, làm ảnh hưởng đến bản thân, đến uy tín của đơn vị. Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ tín dụng, đảm bảo chất lượng chuyên môn nghiệp vụ, năng lực, thích ứng tốt với áp lực cạnh tranh ngày càng tăng trong công việc.
Song song với việc thực hiện đào tạo, đào tạo lại thì việc tuyển dụng cán bộ tín dụng mới cũng phải làm tốt, đúng theo quy định của Ngân hàng, tuyển chọn những cán bộ tín dụng có trình độ, nghiệp vụ vững vàng, có tư cách đạo đức, khả năng giao tiếp tốt và khả năng chịu được áp lực công việc ở cường độ cao. Bên cạnh đó, cần có nhiều chính sách đãi ngộ, trợ cấp cho cán bộ tín dụng một cách hợp lý.
3.2.3. Hoàn thiện công tác phân loại nợ, trích lập dự phòng và xử lý nợ xấu
- Thực hiện công tác kiểm soát hoạt động kinh doanh của những khách hàng có nợ xấu để thực hiện phân loại nợ chính xác.
Ngân hàng TMCP Đại Chúng cần thực hiện nghiêm túc công tác kiểm soát hoạt động kinh doanh của khách hàng có nợ xấu. Các cán bộ có thể tiến hành nghiên cứu và tìm hiểu nguyên nhân tạo ra nợ của khách hàng, qua đó có thể đưa ra các lời khuyên phù hợp đối với khách hàng. Khách hàng có thể dựa vào đó để tiến hành cải thiện tình hình kinh daonh của doanh nghiệp sau đó tiến hành trả nợ cho Ngân hàng.
Hoạt động giám sát này cần có sự phối hợp giữa công tác quản lý và công tác
phân loại nợ xấu theo định kì. Việc đầu tiên là cần phải tiến hành hát hiện nợ xấu. Đâu là cơ sở quan trọng cho việc xửa lý nợ xấu với khách hàng về sau này. Việc xử lý nợ xấu cần được thực hiện thường xuyên và có thể được thực hiện theo các hướng: Giám sát từng khoản vay và giám sát tổng thể danh mục tín dụng.
- Chủ động xử lý nợ xấu.
Trích lập dự phòng rủi ro giống như khoản “bảo hiểm”, giúp ngân hàng đối mặt với rủi ro nợ xấu trong tương lai. Nếu trích lập giảm, trong tương lai nợ xấu bùng lên mà không có nguồn xử lý thì không chỉ lợi nhuận ngân hàng bị ảnh hưởng, mà sức khỏe tài chính của cả Ngân hàng cũng đi xuống.
Cần có một bộ phận giám sát riêng để việc chuyển nợ quá hạn được thực hiện nghiêm túc và chặt chẽ. Ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam cũng nên sử dụng các công cụ để tài trợ cho chi phí rủi ro tín dụng.
Cơ chế trích lập quỹ dự phòng và xử lý rủi ro hiện nay của NHNN và Ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam cho phép trích lập dự phòng theo phương pháp “định lượng” và “định tính”. Tuy nhiên, Ngân hàng vẫn chỉ thực hiện việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng theo phương pháp “định lượng” đó là chỉ trích lập dự phòng cụ thể đối với những khoản nợ từ nhóm 2 trở lên. Để việc phân loại nợ và hạch toán nợ đúng bản chất chất lượng tín dụng và phản ánh đúng tình trạng tài chính của khách hàng vay vốn, Ngân hàng nên xem xét khi phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro cần tham khảo thêm phương pháp đánh giá thực trạng tình hình của khách hàng vay vốn để đưa ra biện pháp trích lập dự phòng đúng với nguy cơ rủi ro để có thể bù đắp rủi ro khi khách hàng không trả được nợ giảm thiểu nguy cơ nợ xấu.
Ngân hàng hoàn toàn có thể sử dụng những chi phí từ nguồn dự phòng mà chưa sử dụng đến đề tài trợ cho chi phí rủi ro. Chủ động tăng cường trích lập, sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu theo quy định của Pháp luật, chấp nhận giảm lợi nhuận hoặc thua lỗ. Việc làm này sẽ giúp Ngân hàng nhanh chóng bù đắp tổn thất, giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp. Đồng thời có thể giảm quỹ lương nhưng làm tăng khả
năng tài chính nội tại của Ngân hàng.
- Ngoài việc phân loại nợ và trích lập dự phòng một cách hợp lý, Ngân hàng có thể tham khảo xử lý nợ xấu từ nguồn tài trợ bên ngoài.
Ngân hàng có thể thương lượng với khách hàng để giãn thời gian thu hồi nợ và xem xét giảm lãi suất một cách hợp lý cho khách hàng có khó khăn tài chính tạm thời. Khách hàng có thể cần thêm thời gian đẻ tái cơ cấu lại hoạt động kinh doanh. Ngoài ra ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng bán các tài sản không cần thiết, hàng tồn kho. Nếu khách hàng không đồng ý thì sẽ tiến hành khởi kiện.
Nguồn tài trợ từ các chi phí bảo hiểm. Trong trường hợp khách hàng bị rủi ro ví dụ như tai nạn xe hơi, các công ty bảo hiểm sẽ trả tiền bồi thường. Khách hàng có thể nhận được tiền từ nguồn đền bù của các công ty bảo hiểm, nhờ vào đó họ có thể tiếp tục các hoạt động kinh doanh để trả nợ tiếp cho Ngân hàng.
- Đa dạng hóa các phương thức xử lý nợ xấu
Tùy từng khách hàng mà Chi nhánh cần có các phướng thức khách nhau để tiếp cận với họ. Tránh trường hợp tiếp cận xử lý nợ xấu một cách quá máy móc.
Đối với những khách hàng hay trả chậm, chúng ta phải kiên trì hợp tác cho tới khi họ phải hợp tác. Khi khách hàng có thái độ nóng nảy hung hăng thì cần phải bình tĩnh ứng phó mọi tính huống có thể xảy ra, cần đề cao cảnh giác, thật mềm dẻo đến khi họ trở lại trạng thái bình thường, có thái độ hợp tác. Trong trường hợp khách hàng vẫn không chịu hợp tác, ngân hàng hoàn toàn có thể kiện khách hàng.
Đối với những khách hàng có thái độ mềm mỏng cần phải đề cao cảnh giác, tránh tin quá mức vào họ vì rất nhiều trường hợp chi nhánh tưởng chừng như có thể thu được nợ nhưng thực ra khách hàng sử dụng thái độ mềm mỏng đó đển đối phó cho qua. Họ có thể nói dối về tình hình hiện tại và cố tình lui lại thời điểm trả nợ. Đối với những khách hàng này cần phải có thái độ kiên quyết, ấn định rõ ràng ngày và thời điểm trả nợ, tránh tình trạng khách hàng sử dụng thái độ mềm mỏng để lần khất việc trả nợ.