Đối Tượng Khách Hàng Của Dịch Vụ Ngân Hàng Bán Lẻ Lớn



Khoản vay đồng tài trợ Ngân hàng A: x% Ngân hàng B: x% Ngân hàng C: x%

Ngân hàng A

Ngân hàng B

Khách hàng

Hình 1.1: Mô hình cho vay đồng tài trợ


Ngân hàng C

Cho vay đồng tài trợ đòi hỏi phải có một ngân hàng có uy tín đủ lớn làm nhiệm vụ thẩm định tín dụng và kết nối các ngân hàng khác tham gia. Về cơ chế hoạt động, một giao dịch cho vay đồng tài trợ được quản lý bởi một ngân hàng chính được gọi là ngân hàng đầu mối (book runner). Ngân hàng đầu mối có nhiệm vụ kêu gọi vốn từ các ngân hàng đối tác để cùng san sẽ trách nhiệm thực hiện giao dịch. Quyền lợi của các ngân hàng tham gia vốn sẽ được ấn định theo tỷ lệ vốn tham gia. Ngân hàng đầu mối ngoài việc hưởng lãi từ phần vốn đóng góp còn được hưởng phí thu xếp và phí quản lý giao dịch. Các ngân hàng tham gia cũng có thể hưởng phí cam kết theo hạn mức hợp đồng nhưng chưa được giải ngân.

Bảng 1.2: Quy mô cho vay đồng tài trợ toàn cầu


Năm

Số vốn huy động

(Triệu USD)

Số giao dịch

Vốn trung bình/giao dịch

(Triệu USD)

2005

3.508.765

8.606

408

2006

3.881.538

8.868

438

2007

4.617.918

8.777

526

2008

2.588.534

6.464

400

2009

3.985.231

7.897

505

2010

4.981.231

8.541

683

Nguồn: Thomson Reuters [10]

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 271 trang tài liệu này.

Ngân hàng bán buôn và bán lẻ tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - 6

Trong năm 2008, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tín dụng dẫn đến việc tiếp cận vốn khó khăn vốn thu xếp thông qua các giao dịch cho vay đồng tài trợ đạt 2.588 tỷ USD, giảm mạnh 44% so với 2007 và là mức thấp nhất từ năm 2003 (xem bảng 1.2).


Chiết khấu

Các ngân hàng thực hiện chiết khấu các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các doanh nghiệp lớn và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với ngân hàng khác. Với dịch vụ này, các NHTM giúp cho doanh nghiệp lớn khôi phục năng lực thanh toán, giúp họ đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn. Đây là dịch vụ được ưu chuộng không những đối với các khách hàng mà cả đối với ngân hàng vì có đảm bảo bằng giấy tờ có giá và rủi ro tín dụng thấp.

Bảo lãnh

Bảo lãnh ngân hàng là cam kết của ngân hàng bảo lãnh được lập trên một văn bản để cam kết với bên có quyền (gọi là bên thụ hưởng bảo lãnh). Nếu khi đến hạn bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh) không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các cam kết đã nêu trong hợp đồng thì ngân hàng bảo lãnh sẽ đứng ra thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh. Thực chất, đây là hình thức tín dụng bằng chữ ký, không xuất vốn nhưng lại có rủi ro vì ngân hàng bảo lãnh buộc phải thực hiện cam kết bảo lãnh khi người bảo lãnh vì lý do nào đó không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình.

Các hình thức bảo lãnh chủ yếu dành cho các khách hàng của NHBB là bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm, bảo lãnh đối ứng.

Cho thuê tài chính

Cho thuê tài chính là một giao dịch hợp đồng giữa hai chủ thể bao gồm bên chủ sở hữu tài sản và bên sử dụng tài sản, trong đó bên chủ sở hữu tài sản (bên cho thuê) chuyển giao tài sản cho bên đi thuê sử dụng trong một thời gian nhất định và bên sử dụng tài sản phải thanh toán tiền thuê cho bên chủ sở hữu tài sản. Thực chất của cho thuê tài chính là một hình thức tài trợ vốn, trong đó theo yêu cầu của bên đi thuê, bên cho thuê tiến hành mua tài sản và chuyển giao cho bên đi thuê sử dụng.

Bao thanh toán

Đây là một hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc bán hàng hóa đã được hai bên thỏa thuận trong hợp đồng mua, bán hàng. Dịch vụ này do một công ty “factor” thực hiện nhằm giúp các doanh nghiệp bán những khoản nợ hiện có của mình để quay vòng vốn. Công ty


“factor” xem xét, thẩm định đối tác mua hàng, nếu đồng ý tài trợ, sẽ ký hợp đồng “factor” với doanh nghiệp bán hàng. Chênh lệch giữa giá trị hóa đơn và giá bao thanh toán tạo nên thu nhập cho các công ty “factor” lại là tổn phí tài chính cho doanh nghiệp bán hàng, con số này thường không nhỏ.

1.2.4.3. Dịch vụ thanh toán

Khi cung cấp dịch vụ thanh toán cho khách hàng, ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức trung gian tổ chức thực hiện thanh toán thay cho khách hàng của mình. Căn cứ vào phạm vi thực hiện, dịch vụ thanh toán bao gồm: Dịch vụ thanh toán trong nước và dịch vụ thanh toán quốc tế.

Thanh toán trong nước

Bao gồm thanh toán giữa các doanh nghiệp và thanh toán giữa các doanh nghiệp qua ngân hàng và thanh toán giữa các ngân hàng. Thanh toán giữa các doanh nghiệp qua ngân hàng là việc thanh toán bằng cách trích tiền từ tài khoản của người phải trả sang tài khoản của người thụ hưởng thông qua nghiệp vụ thanh toán của các ngân hàng. Có rất nhiều phương thức thanh toán qua hệ thống ngân hàng như: Thanh toán bằng ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, chuyển khoản thanh toán tự động định kỳ… Thanh toán giữa các ngân hàng xảy ra khi bên chi trả và bên thụ hưởng không có tài khoản ở cùng ngân hàng nên phải thông qua việc thanh toán giữa các ngân hàng với nhau. Cách thức thực hiện việc thanh toán giữa các NHTM bao gồm: Thanh toán qua NHNN, thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng. Thanh toán thu/chi hộ giữa các ngân hàng. Nhờ có dịch vụ này mà NHTM tập trung ngày càng nhiều các khoản vốn tiền tệ trong nền kinh tế, làm tăng thêm nguồn vốn tín dụng để đầu tư vào quá trình tái sản xuất mở rộng.

Thanh toán quốc tế

Với mạng lưới đại lý rộng khắp, với nền tảng công nghệ hiện đại, các ngân hàng là một tổ chức trung gian thanh toán cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, thực hiện chuyển tiền nhanh từ quốc gia này đến quốc gia khác. Các giao dịch thanh toán quốc tế thường được thực hiện thông qua các phương thức chủ yếu như tín dụng chứng từ (L/C), nhờ thu, chuyển tiền.

1.2.4.4. Kinh doanh ngoại tệ

Là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của NHTM. Với nghiệp vụ này, một mặt ngân hàng mua bán ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho doanh nghiệp, đặc biệt


là các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu. Nghiệp vụ này mang lại thu nhập “phi tín dụng” cho ngân hàng, góp phần đa dạng hóa nguồn thu nhập của ngân hàng.

Các NHBB cũng thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng: Đây là hình thức kinh doanh ngoại tệ giữa các NHTM với nhau thông qua thị trường liên ngân hàng. Dịch vụ kinh doanh ngoại tệ tại các NHTM được thực hiện bằng nhiều giao dịch khác nhau: Giao dịch giao ngay (Foxex Spot Transations), Giao dịch kỳ hạn một chiều (Forex Forward Outright Transactions), Giao dịch hoán đổi (Foxex Swaps Transactions), Giao dịch Arbitrage (Arbitrage Transactions), Giao dịch quyền chọn ngoại tệ (Options Transactions), Giao dịch quyền chọn tương lai (Forex Future Transactions)…

1.2.4.5. Dịch vụ ngân quỹ

Thu chi tại quầy

Ngân hàng nhận tiền mặt từ khách hàng có nhu cầu nộp tiền vào ngân hàng để gửi tiết kiệm, gửi vào tài khoản thanh toán, trả nợ vay, chuyển trả tiền hàng, thu đổi ngoại tệ… đồng thời ngân hàng chi tiền mặt cho các khách hàng có nhu cầu rút từ tài khoản thanh toán, tài khoản tiền vay… tại quầy giao dịch của ngân hàng.

Thu chi hộ

Ngân hàng thay mặt khách hàng để thực hiện nghiệp vụ thu hộ tiền từ người mua hàng hóa, dịch vụ… hoặc chi trả hộ lương, chi trả tiền cho đối tác của khách hàng. Dịch vụ thu chi hộ có thể thực hiện bằng tiền mặt hoặc bằng phương thức chuyển khoản (qua tài khoản cá nhân hoặc qua thẻ ATM).

1.2.4.6. Dịch vụ ngân hàng điện tử

Để thúc đẩy quá trình hội nhập, thu hút khách hàng cũng như giành giật cơ hội trong kinh doanh, hầu hết các ngân hàng trên thế giới đang không ngừng tăng cường và đưa ra các dịch vụ tiện lợi, nhanh gọn và được hỗ trợ mạnh mẽ của công nghệ hiện đại, mô hình ngân hàng với hệ thống quầy làm việc, những tòa nhà cao ốc, giờ làm việc hành chính 7, 8 giờ sáng đến 4, 5 giờ chiều đang dần được cải tiến và thay thế bằng mô hình ngân hàng mới – ngân hàng điện tử. Khẳng định bằng thành công trong những năm qua, ngân hàng điện tử đã có những bước phát triển vượt bậc và trở thành mô hình tất yếu cho hệ thống ngân hàng trong thế kỷ 21.


DVNH điện tử dành cho các khách hàng của NHBB chủ yếu là Homebanking, Internet banking, Call center…

1.2.4.7. Một số dịch vụ ngân hàng bán buôn khác

Ngoài các dịch vụ nêu trên, NHBB còn cung cấp các dịch vụ khác như: dịch vụ đầu tư tài chính, dịch vụ tư vấn, dịch vụ bảo lãnh phát hành…

1.3. DỊCH VỤ NGÂN HÀNG BÁN LẺ

1.3.1. Khái niệm

Hiện nay chưa có định nghĩa chính xác về khái niệm dịch vụ NHBL. Các quan điểm về dịch vụ NHBL dựa trên loại hình dịch vụ hoặc đối tượng khách hàng mà các sản phẩm hướng tới. Theo cách hiểu phổ biến nhất, NHBL là hoạt động cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính chủ yếu cho khách hàng là các cá nhân, các hộ gia đình và các DNNVV.

Bên cạnh đó, có một số nhà nghiên cứu nhấn mạnh vai trò của công nghệ thông tin trong các sản phẩm ngân hàng cung cấp. Theo các chuyên gia kinh tế của học viện nghiên cứu Châu Á – AIT cho rằng, NHBL là cung cấp trực tiếp sản phẩm, DVNH tới từng cá nhân riêng lẻ, các DNNVV thông qua mạng lưới chi nhánh truyền thống hay thông qua các phương tiện điện tử viễn thông và CNTT.

Một số chuyên gia khác nhìn nhận dịch vụ NHBL trên phương diện nhà cung cấp dịch vụ với khâu phân phối giữ vai trò quyết định. “Bán lẻ là hoạt động của phân phối mà trong đó triển khai các hoạt động tìm hiểu, xúc tiến, nghiên cứu, thử nghiệm, phát hiện, triển khai các kênh phân phối hiện đại mà nổi bật là kinh doanh qua mạng” (Jean Paul Vontron – Ngân hàng Forties).

Từ điển giải nghĩa Tài chính – Đầu tư – Ngân hàng – Kế toán Anh Việt, Nhà xuất bản khoa học và kinh tế năm 1999 định nghĩa dịch vụ NHBL là các DVNH được thực hiện với khách hàng là công chúng, thường có quy mô nhỏ và thông qua các chi nhánh nhằm đối lập với dịch vụ NHBB là DVNH dành cho các định chế tài chính và những DVNH được cung cấp với số lượng lớn.

Từ những khái niệm trên có thể đi đến kết luận về dịch vụ NHBL như sau:

Dịch vụ NHBL là DVNH cung ứng các sản phẩm dịch vụ tài chính tới từng cá nhân riêng lẻ, các DNNVV thông qua mạng lưới chi nhánh, hoặc việc khách hàng có


thể tiếp cận trực tiếp với sản phẩm DVNH thông qua phương tiện thông tin, điện tử viễn thông.

Để xác định mức độ thực hiện dịch vụ NHBL của một NHTM, các tổ chức tài chính lớn trên thế giới dựa vào các tiêu chí sau: Giá trị thương hiệu; Hiệu lực tài chính; Tính bền vững của nguồn thu; Tính rõ ràng trong chiến lược; Năng lực bán hàng; Năng lực quản lý rủi ro; Khả năng tạo sản phẩm; Thâm nhập thị trường; Đầu tư vào nguồn nhân lực.

Trong hoạt động NHBL có 3 vấn đề mà các ngân hàng cần quan tâm:

Xây dựng kênh phân phối là mối quan tâm lớn của dịch vụ NHBL, mà đặc trưng là hệ thống công nghệ thông qua các phương tiện, kênh phân phối. Các NHTM lớn trên thế giới đang thử nghiệm các kỹ năng phân phối đa kênh (multi chanel distribution skills) trong triển khai dịch vụ NHBL.

Xác định khách hàng và nhu cầu khách hàng thông qua việc tìm hiểu khe hở thị trường, từ đó xây dựng mối liên kết và cơ chế tạo thuận lợi cho giao dịch tài chính. Việc tìm tòi những thị trường chưa khai phá là điều quan trọng, bao gồm khách hàng, loại sản phẩm mà họ cần và kênh phân phối. Vì vậy, với những thị trường mới nổi hoặc đang phát triển, khi mà người dân chưa làm quen nhiều với các DVNH thì tiềm năng của thị trường NHBL là vô cùng lớn.

Kết hợp thương mại và tài chính, các hoạt động tài chính với nhau trong mối liên hệ chung, chú trọng vào các mối liên kết mới như bancassurance, ngân hàng – chứng khoán…

1.3.2. Đặc điểm của dịch vụ ngân hàng bán lẻ

1.3.2.1. Đối tượng khách hàng của dịch vụ ngân hàng bán lẻ lớn

Dịch vụ NHBL là những dịch vụ cung ứng tiện ích và sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng (tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho sinh hoạt). Do đó, đối tượng khách hàng của dịch vụ NHBL bao gồm các cá nhân, các DNNVV và đa dạng về hình thức phục vụ.

1.3.2.2. Dịch vụ ngân hàng bán lẻ bao gồm rất nhiều món giao dịch với giá trị của mỗi giao dịch không lớn nên chi phí bình quân trên mỗi giao dịch khá cao

Dịch vụ NHBL phục vụ cho các nhu cầu giao dịch và thanh toán thường xuyên của người dân như thanh toán tiền hàng, chuyển khoản, chuyển vốn… Do đó, để phục


vụ mỗi đối tượng khách hàng của NHBL, ngân hàng cũng phải tốn chi phí giống như khi phục vụ một khách hàng của NHBB nên chi phí bình quân trên mỗi giao dịch của NHBL thường lớn. Số lượng giao dịch lớn, lợi nhuận thu được từ mỗi giao dịch là nhỏ nhưng lợi nhuận đạt được trên số lượng lớn giao dịch là đáng kể, đáp ứng nhu cầu của số đông khách hàng.

1.3.2.3. Dịch vụ ngân hàng bán lẻ luôn cải tiến cho phù hợp với nhu cầu đa dạng và gia tăng của khách hàng với tiến bộ của công nghệ

Đối tượng của dịch vụ NHBL chủ yếu là khách hàng cá nhân khác nhau về thu nhập, trình độ dân trí, hiểu biết, tính cách, sở thích, độ tuổi, nghề nghiệp nên nhu cầu của khách hàng rất đa dạng. Từ đó, dịch vụ NHBL cũng đa dạng và thay đổi liên tục để thỏa mãn nhu cầu khách hàng.

1.3.2.4. Dịch vụ ngân hàng bán lẻ phát triển đòi hỏi hạ tầng kỹ thuật công nghệ hiện đại

Do đặc trưng đối tượng khách hàng cá nhân nhạy cảm với chính sách marketing nên họ dễ dàng thay đổi nhà cung cấp dịch vụ khi các sản phẩm cung cấp không tạo sự khác biệt và có tính cạnh tranh cao. Đặc biệt, hiện nay với sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin, và yêu cầu ngày càng đa dạng của khối khách hàng này, gia tăng hàng lượng công nghệ là một trong những phương thức tạo giá trị gia tăng và nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm cung cấp. Do đó có thể nhận thấy vai trò quan trọng của CNTT trong dịch vụ NHBL:

CNTT là tiền đề quan trọng để lưu giữ và xử lý cơ sở dữ liệu tập trung, cho phép các giao dịch trực tuyến được thục hiện.

CNTT hỗ trợ triển khai các sản phẩm dịch vụ NHBL tiên tiến như chuyển tiền tự động, huy động vốn và cho vay dân cư với nhiều hình thức khác nhau.

1.3.2.5. Nhu cầu mang tính thời điểm

Các dịch vụ mà mọi cá nhân mong muốn ngân hàng cung cấp cho mình chỉ có giá trị trong một thời điểm nhất định. Cùng với sự thay đổi của các điều kiện xung quanh cuộc sống của họ, nhu cầu của họ cũng sẽ thay đổi. Nếu ngân hàng nào nhanh nhạy trong việc nắm bắt trước các nhu cầu của khách hàng để từ đó thỏa mãn họ thì sẽ giành phần thắng trong cuộc cạnh tranh này.


1.3.2.6. Dịch vụ ngân hàng bán lẻ là ngành có lợi thế kinh tế theo quy mô và lợi thế kinh tế theo phạm vi

Với dịch vụ NHBL, quy mô càng lớn, số người tham gia càng nhiều thì chi phí càng thấp, càng thuận tiện và tiết kiệm chi phí.

1.3.2.7. Dịch vụ đơn giản, dễ thực hiện

Mục tiêu của dịch vụ NHBL là khách hàng cá nhân nên các dịch vụ thường tập trung vào các dịch vụ tiền gửi và tài khoản, vay vốn, mở thẻ tín dụng…

1.3.2.8. Độ rủi ro thấp

Đây là đặc điểm khác biệt so với dịch vụ bán buôn. Trong khi các dịch vụ bán buôn tại các ngân hàng tập trung vào đối tượng khách hàng là tổ chức kinh tế, trung gian tài chính với giá trị giao dịch lớn, độ rủi ro cao thì dịch vụ NHBL với số lượng khách hàng cá nhân lớn, rủi ro phân tán và rất thấp là một trong những mảng đem lại doanh thu ổn định và an toàn cho các NHTM.

1.3.3. Vai trò của dịch vụ ngân hàng bán lẻ

Các ngân hàng hàng đầu thế giới như CityGroup, HSBC, BNB, Bank of American, Paribas, Barclay Bank, Credit Suisse, Deutsche Bank, Fortis, Royal Bank of Scotland cũng coi phát triển dịch vụ NHBL là một trong những chiến lược chủ đạo của họ hiện nay. Các ngân hàng trên đã phát triển mạnh về dịch vụ bán buôn đều nhận định rằng hoạt động bán buôn có thể tạo ra nguồn thu ổn định tuy nhiên nguy cơ rủi ro rất cao. Trong khi hoạt động NHBL mang lại nguồn doanh thu cao, chắc chắn, ít rủi ro. Bên cạnh đó, nó mang lại cơ hội đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, cơ hội bán chéo với cá nhân và doanh nghiệp nhỏ. Vì vậy, các ngân hàng đều hy vọng rằng dịch vụ NHBL sẽ ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh số kinh doanh của họ.

Vai trò này càng thể hiện rõ trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới vừa qua, trong khi hầu hết các NHTM có chiến lược tập trung vào hoạt động NHBL đã trụ vững trong khi nhiều ngân hàng đầu tư lớn bị phá sản (Merrill Lynch, Lemon Brothers…) hoặc lâm vào khó khăn cũng phải chuyển hướng sang phát triển hoạt động NHBL. Vì vậy, xu hướng là hầu hết các NHTM trên thế giới ngày nay đều phát triển hoạt động NHBL.

Dịch vụ NHBL mang lại rất nhiều lợi ích cho cả phía nhà cung cấp dịch vụ và cả phía khách hàng. Nói cách khác, dịch vụ NHBL đã mang lại lợi ích cho toàn xã hội

Xem tất cả 271 trang.

Ngày đăng: 29/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí