Phân Biệt Sự Khác Nhau Giữa Dịch Vụ Ngân Hàng Bán Buôn Và Bán Lẻ


1.4. PHÂN BIỆT SỰ KHÁC NHAU GIỮA DỊCH VỤ NGÂN HÀNG BÁN BUÔN VÀ BÁN LẺ

Thực chất là rất khó có thể đưa ra một tiêu chí nào đó phân biệt chính xác giữa dịch vụ ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ. Tuy nhiên, vẫn có một số đặc trưng và tiêu chí sau để nhận diện được thế nào là dịch vụ ngân hàng bán buôn và bán lẻ:

Tiêu

chí

Dịch vụ ngân hàng bán lẻ

Dịch vụ ngân hàng bán buôn


Đối tượng


Khách hàng của dịch vụ ngân hàng bán lẻ bao gồm các đối tượng sau:

- Thứ nhất, các doanh nghiệp nhỏ và vừa: Đây là nhóm đối tượng rất phổ biến, đặc biệt đối với Việt Nam, đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển, số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam rất lớn và rất cần sự hỗ trợ, giúp đỡ về mặt tài chính của hệ thống ngân hàng.

- Thứ hai, các khách hàng cá nhân: Khách hàng cá nhân trong phát triển dịch vụ chiếm vị trí đặc biệt, vì nó không những có số lượng cực lớn mà còn liên quan đến toàn bộ quá trình tiêu dùng của xã hội. Cá nhân có tiền để dành, hoặc tiết kiệm sẽ không có nơi nào an toàn tiện lợi hơn khi gửi vào hệ thống ngân hàng thương mại, cá nhân cũng có quá nhiều nhu cầu tài chính để phục vụ đời sống của họ. Nếu các ngân hàng khai thác nhóm khách

hàng này trong việc cung cấp sản


Khách hàng của dịch vụ ngân hàng bán buôn là khách hàng lớn nhằm vào các đối tượng sau:

- Thứ nhất, các ngân hàng thương mại có quy mô vừa và nhỏ, nhất là những ngân hàng có quy mô nhỏ, thường không đủ khả năng để huy động vốn cho hoạt động tín dụng của mình, những ngân hàng này sẽ thiếu vốn và sẽ đi vay ngân hàng lớn.

- Các tổ chức tín dụng khác như công ty Tài chính, công ty cho thuê tài chính.

- Các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty có quy mô lớn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 271 trang tài liệu này.

Ngân hàng bán buôn và bán lẻ tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - 8



phẩm, dịch vụ ngân hàng cho họ, sẽ có tác dụng rất lớn cả trong lĩnh vực kinh tế, đời sống mà còn làm cho hệ thống thanh toán nói riêng và lưu thông tiền tệ nói chung của nền kinh tế phát triển

tốt và ổn định.



Quy mô ngân hàng cung cấp dịch vụ


Dịch vụ ngân hàng bán lẻ được cung cấp bởi những ngân hàng có quy mô nhỏ và vừa, những ngân hàng này sẽ cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng trực tiếp đến người tiêu dùng từ các sản phẩm huy động vốn, cho vay, dịch vụ thanh toán, ngân quỹ và các dịch vụ khác. Sự thỏa mãn của khách hàng về việc cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho họ là thước đo để đánh giá quy mô, mức độ hoạt động của ngân hàng bán lẻ


Dịch vụ ngân hàng bán buôn được cung cấp bởi những ngân hàng có quy mô lớn, hoặc rất lớn.

Các tiêu chí để xác định ngân hàng quy mô lớn gồm: vốn, tổng tài sản, hệ thống chi nhánh và số lượng lao động. Việc xác định quy mô ngân hàng còn tùy thuộc vào từng không gian cụ thể. Không có một tiêu chí định lượng chắc chắn để xác định quy mô của ngân hàng. Tùy vào đặc điểm của hệ thống ngân hàng của từng nước mà

xây dựng tiêu chí để xác định quy mô.


Cách thức phân phối sản phẩm


Đưa sản phẩm dịch vụ ngân hàng trực tiếp đến mọi đối tượng, mọi tầng lớp trong xã hội với sự đa dạng, phong phú và tiện ích, trong đó, phát triển sản phẩm ngân hàng điện tử sẽ là bước đột phá có ý nghĩa quyết định.


Thông qua trung gian tài chính (các ngân hàng thương mại, các quỹ…) hoặc thông qua thị trường tài chính (thị trường tiền tệ liên ngân hàng)


Tính chất sản


Nói đến bán lẻ người ta liên tưởng tới tính đa dạng phong phú của sản phẩm dịch vụ mà nó cung cấp cho xã hội –


Nói đến ngân hàng bán buôn là nói đến tính chuyên môn hóa cao và là loại ngân hàng đa năng, hoạt động của


phẩm

nói đến ngân hàng bán lẻ đồng nghĩa với loại hình ngân hàng phục vụ rộng rãi mọi đối tượng trong xã hội là ngân hàng của toàn dân. Với vô vàn sản phẩm dịch vụ - đây là loại ngân hàng mà hoạt động của nó không bị bó hẹp trong một ngành nghề, một lĩnh vực nào mà lan toả trong nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác nhau của xã hội. Một NHBL là ngân hàng có hàng trăm đến hàng ngàn loại sản phẩm dịch vụ.

nó không bó hẹp trong một ngành nghề, một không gian nhất định mà lan rộng và bao quát toàn bộ nền kinh tế với nhiều ngành nghề khác nhau.

Các dịch vụ và quy trình thực hiện thường phức tạp, mất nhiều thời gian. Ví dụ như để cho vay doanh nghiệp lớn ngân hàng phải thẩm định dự án lâu hơn đối với cho vay khách hàng cá nhân.


Tính chất hoạt động


Hoạt động ngân hàng bán lẻ là hoạt động liên quan đến nhiều đối tượng trong xã hội, liên quan đến những tiện ích mà hệ thống ngân hàng cung cấp cho xã hội từ khâu sản xuất đến lưu thông trao đổi tiêu dùng.

Hoạt động ngân hàng bán lẻ phản ánh khả năng xâm nhập sâu rộng vào các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. Mức độ phát triển hoạt động ngân hàng bán lẻ thể hiện sự phát triển chiều rộng của hệ thống ngân hàng.


Hoạt động ngân hàng bán buôn cho phép tài trợ các hoạt động kinh tế thuộc hầu hết các ngành, các lĩnh vực. Hoạt động tín dụng mang tính chất bán buôn là tính chất cơ bản nhất trong hoạt động của ngân hàng bán buôn, thể hiện qua 3 điểm sau:

Các khoản tín dụng có giá trị lớn, được thực hiện thông qua thị trường liên ngân hàng, hoặc được thực hiện trực tiếp giữa ngân hàng bán buôn với các tổ chức tín dụng, hoặc được thực hiện theo hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng bán buôn với các tập đoàn kinh

tế, các tổng công ty

Tính chất giao


Số lượng giao dịch nhiều nhưng giá trị mỗi giao dịch nhỏ nên chi phí bình


Số lượng giao dịch ít nhưng giá trị mỗi giao dịch lớn và chi phí bình quân trên


dịch

quân mỗi giao dịch khá cao để phục vụ mỗi đối tượng của NHBL, ngân hàng phải tốn chi phí nhiều hơn.

mỗi giao dịch nhỏ. Do vậy giao dịch với khách hàng của ngân hàng bán buôn ngân hàng có thể tiết kiệm được chi phí giao dịch dựa vào lợi thế nhờ quy mô giao dịch.


Mức độ rủi ro


Đây là đặc điểm khác biệt so với phát triển dịch vụ ngân hàng bán buôn. Trong khi các dịch vụ ngân hàng bán buôn tập trung vào đối tượng khách hàng là tổ chức kinh tế, trung gian tài chính với giá trị giao dịch lớn, độ rủi ro cao thì dịch vụ ngân hàng bán lẻ với số lượng khách hàng cá nhân lớn, rủi ro phân tán là một trong những mảng đem lại doanh thu ổn định và an toàn cho các NHTM.


Mức độ rủi ro của phát triển dịch vụ ngân hàng bán buôn thể hiện ở một số khía cạnh. Xuất phát từ đặc điểm của đối tượng phục vụ là các tổ chức tham gia nhiều hoạt động kinh tế khác nhau, có mối liên hệ với nhiều thành phần của nền kinh tế nên tạo ra khó khăn cho các NHTM khi xác thực các hoạt động của khách hàng. Do các giao dịch có giá trị cao nên sự thay đổi NHTM cung cấp dịch vụ này sẽ ảnh hưởng tới hoạt động của các NHTM, khiến các NHTM khó chủ động trong

hoạt động kinh doanh của mình.


Quy mô giao dịch


Mục tiêu phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ là gia tăng đối tượng khách hàng cá nhân, hộ gia đình nên các dịch vụ thường đơn giản, dễ thực hiện và thường xuyên, tập trung vào những dịch vụ tiền gửi, tài khoản, vay vốn,

làm thẻ tín dụng…


Với đặc điểm khách hàng là các tổ chức kinh tế đa dạng, hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau nên nhu cầu rất lớn, giá trị giao dịch cao, phức tạp đòi hỏi sự an toàn cũng như thận trọng trong các giao dịch.



Đối tượng khách hàng của dịch vụ


Do đối tượng là các doanh nghiệp và


Thị trường

ngân hàng bán lẻ là các cá nhân, hộ gia đình khá nhạy cảm với chính sách marketing nên họ dễ dàng thay đổi nhà cung cấp dịch vụ sản phẩm cung cấp không tạo sự khác biệt và có tính cạnh tranh cao. Đặc biệt, hiện nay với sự phát triển không ngừng của hệ thống công nghệ thông tin, gia tăng hàm lượng CNTT là một trong những phương thức tạo giá trị gia tăng và nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm cung cấp, từ đó gia tăng được thị

phần trên thị trường.

tổ chức lớn nên thị trường của dịch vụ ngân hàng bán buôn ít biến động. Thị trường này đã và đang được các NHTM khai thác trong một thời gian dài. Hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển sự bảo hoà của thị trường này đã và đang là vấn đề đặt ra, đòi hỏi các NHTM phải mở rộng các thị trường tiềm năng khác cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng bán buôn nhằm “giữ chân” các khách hàng truyền thống của dịch vụ

ngân hàng bán buôn.


1.5. PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG BÁN BUÔN VÀ BÁN LẺ - ĐÒI HỎI TẤT YẾU CỦA QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG

1.5.1. Khái niệm phát triển dịch vụ ngân hàng bán buôn và bán lẻ Quan điểm của triết học duy vật biện chứng

Phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Phát triển không chỉ đơn

thuần tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng mà còn có sự biến đổi về chất của sự vật, hiện tượng. Phát triển là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện do việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra, và hướng theo xu thế phủ định của phủ định. Như vậy hiểu một cách đơn giản nhất thì phát triển là sự tăng lên về số lượng và chất lượng.

Ngân hàng là ngành cung ứng dịch vụ đặc biệt đối với dân cư và nền kinh tế, sự tồn tại của ngân hàng gắn với sự tồn tại của các DVNH cung ứng. Do vậy, phát triển DVNH là hết sức cần thiết nhằm góp phần củng cố ngân hàng lớn mạnh, góp phần nâng cao vị thế của ngành ngân hàng đối với nền kinh tế, khẳng định lòng tin trong dân chúng và tự tin trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Như vậy, phát triển DVNH là một quá trình tất yếu khách quan. Khi nền kinh tế phát triển, DVNH không thể đứng


yên mà phải tăng trưởng và phát triển. Phát triển DVNH bán buôn và bán lẻ được hiểu là mở rộng DVNH bán buôn và bán lẻ về quy mô đồng thời gia tăng chất lượng dịch vụ. Sự phát triển được phân tích trên 2 khía cạnh: Phát triển về chiều rộng và phát triển về chiều sâu.

Hiểu theo nghĩa hẹp: Phát triển dịch vụ NHBB và NHBL là sự gia tăng quy mô số lượng các sản phẩm dịch vụ NHBB và NHBL.

Phát triển về chiều rộng đồng nghĩa với việc đa dạng hóa các loại hình dịch vụ. Không chỉ duy trì các hoạt động truyền thống mà phải tiếp cận và phát triển các DVNH hiện đại; Bên cạnh các dịch vụ phải sử dụng vốn như tín dụng, bảo lãnh, đầu tư… kết hợp cả những dịch vụ không cần vốn nhưng có được nhờ trung gian tài chính của ngân hàng như hoạt động thanh toán, chuyển tiền, tư vấn… hoặc các dịch vụ do sự phát triển của khoa học công nghệ như DVNH điện tử. Xét từ gốc độ vi mô, đa dạng hóa các dịch vụ giúp cho ngân hàng đa dạng hóa cơ cấu thu nhập, giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh, củng cố thương hiệu và uy tín trên thị trường. Xét ở gốc độ vĩ mô, đa dạng hóa các DVNH sẽ cung ứng dịch vụ NHBB và NHBL cho nền kinh tế và dân cư, phát triển kinh tế đất nước.

Trong xu hướng phát triển ngân hàng tại các nền kinh tế phát triển hiện nay, ngân hàng được coi như một siêu thị dịch vụ, một bách hóa tài chính với hàng trăm, thậm chí hàng ngàn dịch vụ khác nhau tùy theo cách phân loại và tùy theo trình độ phát triển của ngân hàng. Lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam đã phát triển nhanh chóng về số lượng các ngân hàng và mở rộng mạng lưới trong những năm vừa qua. Đồng thời, bản thân của mỗi ngân hàng cũng có những chiến lược đa dạng hóa dịch vụ NHBB và NHBL cho riêng mình. Chẳng hạn như tạo ra nhiều chương trình dịch vụ tiền gửi, dịch vụ cho vay với những hình thức khuyến mãi mới khác nhau, phát triển các dịch vụ tư vấn tài chính, dịch vụ ngân quỹ, DVNH tại nhà, DVNH hiện đại ứng dụng công nghệ cao ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong cuộc sống… những dịch vụ này trước đây không hề được các ngân hàng quan tâm phát triển.

Hiểu theo nghĩa rộng: Phát triển dịch vụ NHBB và NHBL có nghĩa là phát triển theo chiều sâu đồng nghĩa với việc gia tăng về danh mục sản phẩm dịch vụ tại một ngân hàng kết hợp với nâng cao chất lượng dịch vụ.


Khi giữa các ngân hàng không còn phân biệt về sự đa dạng loại hình dịch vụ thì chất lượng dịch vụ là yếu tố sống còn của mọi ngân hàng. Vì vậy, ngay từ đầu các ngân hàng phải có kế hoạch và chiến lược không ngừng củng cố và hoàn thiện các hoạt động dịch vụ trên cơ sở cung ứng cho khách hàng các sản phẩm tiện ích nhanh chóng, thuận tiện, chi phí hợp lý.

Nói đến chất lượng DVNH là chúng ta đề cập đến tính tiện ích của nó. Song song với quá trình phát triển DVNH theo quy mô, chất lượng DVNH không ngừng tăng lên, giúp cho khách hàng ngày càng hài lòng hơn với các tiện ích của DVNH. Cũng nhờ vào những tiện ích này, mà các ngân hàng có thể sử dụng như là một vũ khí để tạo sự khác biệt của dịch vụ cho ngân hàng mình đủ khả năng cạnh tranh với ngân hàng khác, gia tăng lợi nhuận.

Theo Parasuraman (1991) chất lượng DVNH thể hiện ở 5 yếu tố: Vật chất, tin cậy, đáp ứng, đảm bảo, thấu cảm [56].

+ Vật chất (tangibility): Là sự thể hiện, hình ảnh bên ngoài của cơ sở vật chất, công cụ, thiết bị, vật liệu, máy móc, phong cách của đội ngũ nhân viên, tài liệu, sách hướng dẫn, hệ thống thông tin liên lạc. Nói một cách tổng quát tất cả những gì khách hàng nhìn thấy trực tiếp bằng mắt và các giác quan đều tác động đến yếu tố này.

+ Tin cậy (reliability) nói lên khả năng cung ứng/thực hiện dịch vụ phù hợp, chính xác, uy tín, đúng với những gì đã cam kết, hứa hẹn. Điều này thể hiện sự nhất quán trong việc thực hiện dịch vụ và tôn trọng các cam kết cũng như giữ lời hứa với khách hàng. Tiêu chí này được đo lường bởi các thang đo: Ngân hàng thực hiện đúng ngay từ lần đầu, ngân hàng cung cấp dịch vụ tại thời điểm mà họ đã hứa.

+ Đáp ứng (responsiveness) thể hiện mức độ mong muốn và khả năng giải quyết vấn đề nhanh chóng, phục vụ khách hàng một cách kịp thời, xử lý hiệu quả các khiếu nại, sẵn sàng giúp đỡ khách hàng và đáp ứng các yêu cầu của khách hàng. Nói cách khác “đáp ứng” là sự phản hồi từ phía nhà cung cấp dịch vụ đối với những gì mà khách hàng mong muốn như: Nhân viên dịch vụ sẵn sàng giúp đỡ khách hàng; Nhà cung cấp dịch vụ cung cấp dịch vụ nhanh chóng, kịp thời; Nhà cung cấp phản hồi tích cực các yêu cầu của khách hàng; Nhà cung cấp luôn cố gắng giải quyết khó khăn cho khách hàng.


+ Đảm bảo (assurance) là yếu tố tạo nên sự tín nhiệm, tin tưởng cho khách hàng được cảm nhận thông qua kiến thức, chuyên môn, sự phục vụ chuyên nghiệp, khả năng giao tiếp tốt và phong cách lịch thiệp của nhân viên phục vụ, khả năng làm cho khách hàng tin tưởng. Nhờ đó khách hàng cảm thấy yên tâm mỗi khi sử dụng dịch vụ.

+ Thấu cảm (empathy) thể hiện sự quan tâm chăm sóc khách hàng ân cần, dành cho khách hàng sự đối xử chu đáo tốt nhất có thể. Yếu tố con người là phần cốt lõi tạo nên sự thành công này và sự quan tâm của nhà cung ứng dịch vụ đối với khách hàng càng nhiều thì sự cảm thông càng tăng thể hiện ở chỗ nhân viên chú ý quan tâm đến nhu cầu của từng khách hàng.

Mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng có thể thể hiện qua hình vẽ sau đây:

Sự hài lòng của khách hàng Hình 1 2 Mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ 2

Sự hài lòng của khách hàng Hình 1 2 Mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ 3


Sự hài lòng của khách hàng

Hình 1.2: Mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng theo mô hình SERVQUAL


Tin cậy




Đáp ứng




Năng lực phục vụ

Đồng cảm




Phương tiện hữu hình




Nguồn Parasuraman 1988 56 Quan điểm của tác giả về phát triển DVNH bán buôn 4

Nguồn Parasuraman 1988 56 Quan điểm của tác giả về phát triển DVNH bán buôn 5

Nguồn: Parasuraman (1988) [56] Quan điểm của tác giả về phát triển DVNH bán buôn và bán lẻ như sau: Nhận thấy xu hướng phát triển, tiềm năng của DVNH bán buôn, bán lẻ và tác động mạnh mẽ của CNTT trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng cũng như mọi mặt đời sống hiện nay, tác giả cho rằng DVNH bán buôn, bán lẻ được đánh giá là phát triển cần

chú ý các tiêu chí sau:

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/11/2022