Kết Quả Ước Lượng Mô Hình Hồi Quy Mức Độ Ổn Định Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam


cao thì có tác động làm tăng năng lực cạnh tranh của năm kế tiếp. Kết quả nghiên cứu này tương đồng với nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của Delis (2012) đối với NHTM 84 quốc gia và nghiên cứu của Delis và Pagoulatos (2009) tại 14 quốc gia Trung và Đông Âu.

Quy mô vốn chủ sở hữu (EAT): Hệ số hồi quy cho biến EAT có mức ý nghĩa 10% và tác động dương đến chỉ số Lerner. Hệ số hồi quy dương cho thấy mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa quy mô VCSH trên tổng tài sản và mức độ cạnh tranh của NHTM. Chỉ tiêu EAT đại diện cho năng lực tài chính của NHTM, tỷ lệ này càng cao tức giá trị Lerner càng cao, tức là năng lực cạnh tranh của ngân hàng càng cao, đồng nghĩa với mức độ cạnh tranh của ngân hàng so với thị trường càng giảm. Kết quả EAT dương trái ngược với nghiên cứu của Berger và cộng sự (2009) và Soedarmono (2011) nhưng hoàn toàn tương đồng với nghiên cứu của Delis (2012). Điều này có thể được giải thích với hàm ý NHTM có mức vốn hóa càng cao (EAT cao) thì chi phí lãi cho tiền gửi giảm, chi phí trả nợ vay thấp chính vì vậy không kích thích được đòn bẩy tài chính, từ đó làm giảm áp lực cạnh tranh của ngân hàng.

Quy mô ngân hàng (B_SIZE): Hệ số hồi quy cho biến B_SIZE có mức ý nghĩa 1% và tác động dương với chỉ số Lerner. Hệ số hồi quy dương cho thấy mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa quy mô ngân hàng và năng lực cạnh tranh của các NHTM VN. Vì vậy để gia tăng năng lực cạnh tranh, ngân hàng cần thực hiện tăng vốn bên cạnh hoạt động quản lý và hiểm soát các hoạt động ngân hàng. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Soedarmono và cộng sự (2011), Tabak và cộng sự (2012), Kasman (2014).

Quy mô tín dụng (LTA): Hệ số hồi quy cho biến LTA có mức ý nghĩa 1% và tác động dương với chỉ số Lerner. Hệ số hồi quy dương cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô và năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Hàm ý khi LTA tăng làm chỉ số Lerner tăng, đồng nghĩa với áp lực cạnh tranh ngân hàng với thị trường giảm. Thu nhập của các NHTM VN chủ yếu vào hoạt động cho vay, quy mô tín dụng tăng sẽ làm tăng nguồn thu từ lãi vay đồng nghĩa tăng thu nhập cho ngân hàng. Điều này dẫn đến mức độ cạnh tranh của các ngân hàng gia tăng, kết quả nghiên cứu tương đồng với nghiên cứu của Maudos và Solisa (2009). Quy mô tín dụng tăng là một chỉ tiêu phản ảnh trình độ chuyên môn cao của ngân hàng trong lĩnh vực cho vay nên ngân hàng có thể tiết kiệm chi phí trong giao dịch, vì vậy lợi nhuận có thể tăng cao hơn (Manlagnit, 2011).


Khả năng huy động vốn (HDV): Hệ số hồi quy cho biến HDV có mức ý nghĩa 1% và tác động âm với chỉ số Lerner. Hệ số hồi quy âm cho thấy mối quan hệ nghịch chiều giữa Khả năng huy động vốn và năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Khi nguồn vốn huy động tăng dẫn đến ngân hàng phải tăng các khoản chi phí cho nguồn vốn huy động vì vậy ngân hàng cần có chiến lược sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động.

Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng (LLP): Hệ số hồi quy cho biến LLP có mức ý nghĩa 1% và tác động âm với chỉ số Lerner. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Fu và cộng sự (2014). Điều này cũng phù hợp với thực tiễn hoạt động của NHTM VN trong giai đoạn 2010 - 2014: chất lượng tài sản cho vay giảm, nợ xấu gia tăng ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động và làm giảm năng lực cạnh tranh của ngân hàng.

Khả năng đa dạng hóa thu nhập (HHI): Hệ số hồi quy cho biến HII có mức ý nghĩa 1% và tác động dương với chỉ số Lerner. Kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng đa dạng hóa càng cao thì năng lực cạnh tranh của ngân hàng càng cao, đồng nghĩa với áp lực cạnh tranh của từng ngân hàng so với thị trường càng thấp. Điều này có thể được giả thích bởi việc mở rộng các loại hình, dịch vụ kinh doanh của các NHTM VN trong giai đoạn gần đây có sự gia tăng đáng kể, hiệu quả cạnh tranh với các tổ chức tài chính nước ngoài đang có xu hướng gia tăng. Bên cạnh đó, các hoạt động nhằm đa dạng hóa thu nhập của các NHTM VN có tín hiệu quả quan, hoạt động hiệu quả. Trong bối cảnh gia nhập CPTPP, với xu thế hội nhập và đón nhận sự gia nhập của hàng loạt các TCTC quốc tế cùng những yêu cầu khắt khe hơn của cơ quan quản lý về đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng hoạt động đa dạng hóa của ngân hàng nhằm mục tiêu tìm kiếm các nguồn thu nhập ngoài lãi thật sự mang lại hiệu quả kinh tế và gia tăng khả năng sinh lờicho ngân hàng, từ đó giúp các NHTM VN gia tăng năng lực cạnh tranh. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Carbo và cộng sự (2009).

Tốc độ tăng trưởng tổng tài sản (GroTA): Hệ số hồi quy cho biến GroTA có mức ý nghĩa 1% và tương quan cùng chiều với chỉ số Lerner. Điều này hàm ý khi tốc độ tăng trưởng tài sản càng tăng thì chỉ số Lerner càng tăng. Sự tăng trưởng của tài sản có thể xuất phát từ nhiều lý do: gia tăng vốn để mở rộng quy mô kinh doanh, mở rộng đầu tư, … Việc gia tăng tổng tài sản cũng là yếu tố củng cố và gia tăng vị trí của ngân hàng trong thị trường chung, điều này sẽ giảm áp lực cạnh tranh của ngân hàng đối với các ngân hàng thương mại khác. Bên


cạnh đó các ngân hàng lớn thường có chi phí thấp hơn trong việc xử lý thông tin và thu thập thông tin (Boyd & Runkle, 1993); có thể đa dạng hóa thu nhập thông qua việc mở rộng các sản phẩm kinh doanh, dịch vụ thu phí (Smirlock, 1985).

Các yếu tố vĩ mô: Hệ số hồi quy cho biến tốc độ tăng trưởng GDP có mức ý nghĩa 10% và tác động cùng chiều với chỉ số Lerner. Hệ số hồi quy cho biến tỷ lệ lạm phát (INF) có mức ý nghĩa 10% và tác động ngược chiều với chỉ số Lerner. Đối với các ngân hàng kinh doanh tiền tệ, khi lạm phát tăng, sức mua đồng tiền giảm dẫn đến GDP giảm. Điều này làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các NHTM, bắt buộc các NHTM phải gia tăng năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Theo chủ nghĩa Keynes, khi nền kinh tế có xu hướng thu hẹp thì chính phủ cần có chính sách nới lỏng kích cầu chẳng hạn như tăng cung tiền từ kênh tín dụng, điều này có thể dẫn đến tăng chi phí, tăng nợ xấu, đồng thời tăng áp lực cạnh tranh.

Mức độ ảnh hưởng từ sự hiện diện của ngân hàng nước ngoài đến các NHTM VN:

Sự gia tăng mức độ ảnh hưởng của NHNNg tại Việt Nam có thể gây là 2 hiệu ứng: hiệu ứng lan tỏa và hiệu ứng cạnh tranh. Tùy theo tác động và mức độ tiếp nhận thay đổi từ các NHTM VN mà hiệu ứng nào sẽ nổi trội hơn. Theo quan điểm trong nghiên cứu của Claessens và cộng sự (2001), nếu các NHNNg có tác động đến việc định giá và lợi nhuận đối với các ngân hàng trong nước chỉ khi thị phần của họ được gia tăng và quy mô thị trường hoạt động của họ đủ rộng, đủ mạnh.

Kết quả ước lượng hồi quy cho thấy sự hiện diện của các NHNNg có ảnh hưởng đến NLCT của các NHTM trong nước. Cả hai biến FS1 và FS2 đều có ý nghĩa thống kê.

Biến tỷ lệ số lượng NHNNg trên tổng số lượng ngân hàng toàn hệ thống tín dụng Việt Nam (FS1): Hệ số hồi quy cho biến FS1 có mức ý nghĩa 10% và tương quan cùng chiều với chỉ số Lerner. Điều này hàm ý khi có sự gia tăng số lượng ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam thì chỉ số Lerner càng tăng. Nếu giải thích theo quan điểm tích cực khi có sự gia tăng số lượng NHNNg tại Việt Nam sẽ là cơ hội để Việt Nam tiếp cận công nghệ tiên tiến, năng lực trình độ quản lý chuyên nghiệp, nguồn nhân lực chất lượng cao, từ đó nâng cao sức mạnh cạnh tranh cho chính ngân hàng nội địa. Điều này rút ngắn khoảng cách cạnh tranh của các ngân hàng nội địa so với NHNNg.


Biến tỷ lệ tổng tài sản các NHNNg trên tổng tài sản toàn hệ thống tín dụng Việt Nam (FS2): Hệ số hồi quy cho biến FS2 có mức ý nghĩa 1% và tương quan cùng chiều với chỉ số Lerner. Điều này hàm ý khi có gia tăng thị phần của NHNNg tại Việt Nam thì chỉ số Lerner càng tăng. Theo nghiên cứu của Manlagnit (2011), Claessens và cộng sự (2001) thị phần NHNNg gia tăng sẽ gây áp lực cạnh tranh cho ngân hàng nội địa. Nhưng việc NHNNg gia tăng FDI trong thị trường Việt Nam cũng góp phần đẩy mạnh vị thế của ngân hàng nội địa, đồng thời với sự quản lý và chi phối từ các NHNNg có vốn lớn cũng là chỗ dựa vững chắc hơn và gia tăng sức mạnh cạnh tranh cho ngân hàng nội địa. Điều này còn phụ thuộc vào năng lực quản lý và sự phối hợp giữa bản thân NHTM VN và NHNNg đầu tư.

Kết quả nghiên cứu hồi quy cho thấy đối với hệ thống NHTM VN trong giai đoạn 2010

– 2018 thì hiệu ứng lan tỏa vượt trội so với hiệu ứng cạnh tranh. Phù hợp với kết quả nghiên cứu của Denizer (2000); Claessens và các tác giả (2001).

Các kết quả về hiệu ứng lan tỏa chiếm ưu thế hơn so với hiệu ứng cạnh tranh là cho thấy sự thành công của NHTM VN trong việc mở rộng thị trường đối với các ngân hàng nước ngoài. Các nhà quản lý và hoạch định chiến lược cần phát huy thế mạnh và tận dụng tiếp cận nguồn vốn, khoa học công nghệ, chiến lược quản lý, … và các tiến bộ từ các ngân hàng nước ngoài để áp dụng cho NHTM nội địa. Kết quả này cũng khẳng định chiến lược mua bán và sáp nhập các NHTM hoạt động không hiệu quả theo chủ trương của Chính phủ là hoàn toàn hợp lý, việc đổi mới thúc đẩy quản trị ngân hàng theo chuẩn mực Base II bước đầu đã mang lại nhưng kết quả khả quan, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập và mở rộng thương mại tầm cỡ như CPTPP. Biến đo lường tác động của hình thức sở hữu đến cạnh tranh (Original): Hệ số hồi quy cho biến Original có mức ý nghĩa 5% và tương quan cùng chiều với chỉ số Lerner. Điều này hàm ý khi đối với các ngân hàng có sở hữu Nhà nước thì mức độ cạnh tranh sẽ cao hơn so với các các NHTM CP không phải Nhà nước. Điều này tương đồng với kết quả nghiên cứu của Tan và Floros (2013). Các ngân hàng sở hữu Nhà nước có nhiều ưu đãi như VCSH cao, tỷ trọng tổng tài sản ngân hàng so với tổng tài sản toàn hệ thống các TCTD cao, có nguồn vốn giá rẻ, không bị áp lực lớn về vốn.


4.3.2. Kết quả ước lượng mô hình hồi quy mức độ ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam

4.3.2.1. Thống kê mô tả các biến

Nghiên cứu được thực hiện trên mẫu gồm 31 NHTM VN và 11 NHTM có vốn nước ngoài (2 ngân hàng liên doanh và 9 ngân hàng 100% vốn nước ngoài) trong giai đoạn 2010 – 2018. Dữ liệu thu được có dạng bảng không cân bằng với 271 quan sát. Kết quả thống kê mô tả được chi tiết:

Bảng 4.15: Bảng thống kê mô tả các biến trong mô hình đo lường mức độ ổn định


Biến số

Quan sát

Trung bình

Độ lệch chuẩn

Giá trị nhỏ nhất

Giá trị lớn nhất

Biến phụ thuộc

ZscoreMH2

271

12.6665

5.6891

0.9030

33.9246

Biến độc lập

Zscore1

271

12.9026

5.6303

0.9030

33.9246

ETA

271

0.0949

0.0429

0.0326

0.2554

B_SIZE

271

18.3747

1.1685

15.9227

20.9956

LTA

271

0.5437

0.1319

0.1473

0.8075

HDV

271

0.6362

0.1348

0.2508

0.8937

LLP1

271

0.0338

0.0688

0.0025

0.6766

HHI

271

0.2945

0.2651

-2.7370

0.4995

GroTA

271

1.8372

23.8438

-0.9282

392.8397

FS1

271

0.2000

0.0216

0.1837

0.2391

FS2

271

0.1027

0.0057

0.0954

0.1130

GDP

271

0.0624

0.0058

0.0525

0.0708

INF

271

0.0661

0.0635

-0.0019

0.2126

Original

271

0.1661

0.3728

0.0000

1.0000

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 267 trang tài liệu này.

Năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh tham gia Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - 19

Nguồn: Tính toán của tác giả từ phần mềm STATA

Theo kết quả, chỉ số Zscore bình quân của mẫu các NHTM nghiên cứu có giá trị bình quân là 12,67%, cho thấy mức độ ổn định trong thị trường ngân hàng tại Việt Nam tương đối thấp. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (ETA) bình quân là 9,49%, mức nhỏ nhất là 3,26% là ngân hàng SCB năm 2018 và giá trị lớn nhất đạt 25,54% là KLB năm 2010. Tốc độ tăng


trưởng tổng tài sản (GrowthTA) bình quân là 1,84%, trong đó ngân hàng đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất là Eximbank với mức 392,84%, gần gấp 4 lần so với năm 2011.

Quy mô tín dụng (LTA) bình quân là 0,537, ngân hàng Agribank có quy mô tín dụng cao nhất là 0,786 vào năm 2010. Khả năng đa dạng hóa thu nhập (HHI_REV) bình quân đạt 71,29%, ngân hàng TPB (2011) đạt giá cao nhất là 373,70%. Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân là 8,62%, trong đó thấp nhất là ngân hàng VBB năm 2015 đạt -9,18% và cao nhất là ngân hàng SGB đạt 29,12% vào năm 2010. Khả năng huy động vốn bình quân là 63,64% trên tổng tài sản của ngân hàng.

Các biến đo lường mô trường kinh tế vĩ mô: tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2010 – 2018 là 6,24%, thấp nhất là 5,25% vào năm và cao nhất là 7,08% vào năm 2018. Tỷ lệ lạm phát bình quân trong 9 năm từ 2010 – 2018 là 6,61%, thấp nhất là - 0,19% vào năm 2015, cao nhất là 21,16% vào năm 2011.

4.3.2.2. Mối tương quan giữa các biến trong mô hình nghiên cứu

Phần lớn hệ số tương quan của biến độc lập đều có giá trị nhỏ hơn 0,8 cho thấy sự đa cộng tuyến giữa các biến trong mô hình nghiên cứu thực nghiệm là không đáng kể. Vì vậy nghiên cứu sử dụng tất cả các biến này trong mô hình nghiên cứu ước lượng.

Bảng 4.16: Tương quan giữa các biến trong mô hình ước lượng Zscore



ZscoreMH2

Zscore1

ETA

B_SIZE

LTA

LLP1

HDV

HHI

GroTA

FS1

FS2

GDP

INF

Original

ZscoreMH2

1














Zscore1

0.7801

1













ETA

0.986

0.8008

1












B_SIZE

-0.6803

-0.6707

-0.725

1











LTA

-0.077

-0.1272

-0.0957

0.3225

1










LLP1

-0.1719

-0.125

-0.1289

0.0231

-0.0398

1









HDV

-0.3305

-0.2953

-0.3121

0.4045

0.6247

0.1488

1








HHI

-0.0241

-0.1782

-0.0995

0.2538

0.1642

-0.0267

0.2249

1.0000







GroTA

0.0093

0.006

0.0034

0.0259

-0.0517

-0.0248

-0.104

0.0035

1






FS1

-0.2192

-0.2493

-0.235

0.2243

0.2775

-0.0467

0.1936

-0.1678

-0.0411

1





FS2

0.1818

0.2161

0.1804

-0.1802

-0.2706

-0.0172

-0.1943

0.0258

-0.0318

-0.52

1




GDP

-0.2398

-0.2811

-0.265

0.1896

0.2418

-0.0165

0.1289

-0.1447

-0.1124

0.6356

-0.4601

1



INF

0.292

0.2

0.2556

-0.2278

-0.2967

-0.1828

-0.594

0.1964

0.0463

-0.2787

0.147

-0.254

1


Original

-0.0434

-0.0434

-0.0629

0.4703

0.4727

-0.0828

0.2231

-0.1299

-0.0278

-0.0063

0.0075

-0.0042

0.0114

1

Nguồn: Tính toán và tổng hợp của tác giả từ phần mềm STATA


4.3.2.3. Kết quả đo lường tác động của các yếu tố đến mức độ ổn định NHTM VN

Dựa trên nghiên cứu được đề xuất bởi Goetz (2017), Fernandez và Garza - Garcia (2017), Berger và cộng sự (2009) luận án sử dụng chỉ số Zscore để đo lường mức độ ổn định của các NHTM VN. Kết quả tính toán theo công thức được thể hiện qua biểu đồ 15 cho thấy: mức độ ổn định của các NHTM VN có xu hướng giảm dần từ 2012 – 2017, điều này cho thấy mức độ bất ổn ngân hàng gia tăng. Năm 2018, mức độ ổn định của các ngân hàng đã có chiều hướng gia tăng

Biểu đồ 4.15: Chỉ số ZscoreMH2 bình quân của 31 NHTM VN giai đoạn 2010 - 2018


18.00

16.00

15.45

15.85

14.96

13.56

14.00

12.04

12.00

11.47

10.57

10.03

10.58

10.00

8.00

6.00

4.00

2.00

0.00

2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

Nguồn: Tính toán và tổng hợp của tác giả

Các NHTM có sở hữu Nhà nước gồm 8 ngân hàng: Agribank, CTG, VCB, BID, SGB và 3 ngân hàng Nhà nước mua lại với giá 0 đồng là NHTM TNHH MTV Xây dựng Việt Nam, NHTM TNHH MTV Dầu Khí Toàn Cầu, NHTM TNHH MTV Đại Dương (theo thống kê của Ngân hàng nhà nước tại thời điểm cuối năm 2016). Trong 31 NHTM VN của nghiên cứu, do hạn chế về thông tin tìm kiếm được, khối NHTM có sở hữu nhà nước được tác giả đưa vào bao gồm 5 NHTM là Agribank, CTG, VCB, BID, SGB.


18.00

Biểu đồ 4.16: Chỉ số ZscoreMH2 theo hình thức sở hữu giai đoạn 2010 - 2018



16.00


14.00


12.00


10.00


8.00


6.00


4.00


2.00


0.00










2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018


NHTM CP

15.91

15.34

16.21

13.43

11.87

11.51

10.56

10.14

10.71

NHTM NN

13.33

13.16

14.07

14.24

12.91

11.30

10.66

9.42

9.94

Nguồn: Tính toán và tổng hợp của tác giả Theo tính toán chỉ số Zscore của tác giả được biểu thị ở biểu đồ 15, năm 2010 - 2012, Zscore của nhóm NHTM NN thấp và chênh lệch lớn so với nhóm NHTM cổ phần, hàm ý mức độ ổn định của các NHTM cổ phần năm 2010 là cao hơn so với các NHTM có sở hữu nhà nước.Về xu hướng, từ năm 2011-2013, chỉ số Zscore của nhóm NHTM NN có xu hướng tăng trong khi Zscore của nhóm NHTM cổ phần có xu hướng giảm; mức độ ổn định của các NHTM nhà nước tăng đang tăng dần. Đến năm 2013, Zscore của nhóm NHTM nhà nước đã tăng lên cao hơn Zscore của nhóm NHTM cổ phần và tiếp tục duy trì đến năm 2016. Đến năm 2017 và

2018, chỉ số Zscore của NHTM NN có xu hướng giảm và thấp hơn nhóm NHTM CP.

Theo nghiên cứu của (Kursat Aydoğan, Güner Gürsoy, 2002), Barth& ctg (2004) rủi ro ngân hàng tăng khi sở hữu nhà nước tăng, nguyên nhân là do một tỷ lệ vốn nhà nước cao có thể đi kèm với sự thiếu hiệu quả và hiệu suất thấp. Tuy nhiên, nghiên cứu của (Hammami, Boubaker, 2015) cho kết quả ngược lại, với kết luận rằng rủi ro tín dụng của ngân hàng sở hữu nhà nước là thấp hơn nhóm NHTM tư nhân khi tính toán Zscore của nhóm ngân hàng có sở hữu nhà nước là 133.21, trong khi Zscore của nhóm ngân hàng tư nhân là 52.99.

Xem tất cả 267 trang.

Ngày đăng: 12/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí