Hiệu Quả Và Nâng Cao Hiệu Quả Quản Trị Ngân Hàng Thương Mại Trong Bối Cảnh Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế


Sau đây tác giả xin được tổng hợp mối quan hệ hệ quả giữa quản trị ngân hàng và hiệu quả kinh doanh ngân hàng như sau:

a) Đổi mới quản trị dẫn đến hay nhằm tới gia tăng hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại

− Những ngân hàng được quản trị tốt thường gây được cảm tình đối với các cổ đông và các nhà đầu tư, tạo dựng được niềm tin lớn hơn của công chúng vào việc ngân hàng có khả năng sinh lời mà không xâm phạm tới quyền lợi của cổ đông, từ đó nâng cao khả năng tiếp cận thị trường vốn của NHTM.

− Những ngân hàng cam kết áp dụng những tiêu chuẩn cao trong quản trị thường huy động được nguồn vốn giá rẻ khi cần nguồn tài chính cho các hoạt động của mình, điều này giúp giảm chi phí vốn. Chi phí vốn phụ thuộc vào mức độ rủi ro của ngân hàng theo cảm nhận của các nhà đầu tư, nghĩa là rủi ro càng cao thì chi phí vốn càng cao. Vì vậy, việc áp dụng hệ thống quản trị tốt sẽ giúp công ty trả lãi suất thấp hơn và có được những khoản tín dụng có kỳ hạn dài hơn, tăng giá trị tài sản cho NHTM.

− Những biện pháp quản trị ngân hàng hiệu quả sẽ góp phần làm nên và nâng cao uy tín của NHTM. Lý do là để thực hiện quản trị ngân hàng tốt, các ngân hàng luôn phải tôn trọng quyền lợi của các cổ đông và các chủ nợ và việc đảm bảo tính minh bạch về tài chính sẽ được xem như là một trong những yếu tố quan trọng trong việc giành được niềm tin cho nhà đầu tư, từ đó nâng cao hình ảnh, uy tín và thương hiệu của ngân hàng.

b) Phát triển kinh doanh đòi hỏi quản trị ngân hàng thương mại phải đổi mới

− Thực tế cho thấy những NHTM có giá trị thị trường lớn hoặc khả năng hoạt động tốt hơn thường chọn áp dụng thông lệ quản trị tốt hơn và ngược lại những NHTM với hiệu quả hoạt động thấp thường chọn phương thức quản trị theo hướng phòng ngừa.

− Những ngân hàng có hiệu quả hoạt động tốt thường thu hút được sự quan tâm và đầu tư của các cá nhân, tổ chức lớn cả trong nước và nước ngoài. Do vậy các


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.

NHTM có cơ hội tiếp cận và học hỏi, áp dụng những thông lệ quản trị tiên tiến, hiện đại.

− Ngân hàng có hiệu quả kinh doanh tốt sẽ chú trọng đến việc quay trở lại đầu tư cho hoạt động quản trị ngân hàng.

Nâng cao hiệu quả quản trị Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế - 8

c) Yếu tố quyết định mối quan hệ giữa đổi mới quản trị và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại

Liên quan đến vấn đề đổi mới quản trị để nâng cao hiệu quả kinh doanh của NHTM tác giả cho rằng có hai yếu tố quan trọng nhất quyết định mối quan hệ này đó là tài trí, năng lực của Ban giám đốc NHTM và áp lực của thị trường.

Thứ nhất là, tài trí và năng lực của ban giám đốc NHTM. Năng lực của ban giám đốc không những được xem như yếu tố cốt lõi để đánh giá, trao quyền mà còn thể hiện sự thích ứng, tài trí của người điều hành về tầm nhìn và tư duy trước những thay đổi trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cạnh tranh trên thị trường. Theo đó, người điều hành thường phái đối mặt với những thách thức xuất phát từ sự thay đổi liên quan đến mô hình quản trị, công nghệ thông tin, định chế, pháp lý và nhu cầu của thị trường... Một NHTM có hiệu quả hoạt động kinh doanh tốt phụ thuộc rất nhiều vào chiến lược, “kỹ thuật” định hướng của người điều hành.

Thứ hai là, mối quan hệ giữa đổi mới quả trị và hiệu quả kinh doanh của NHTM chịu tác động từ những áp lực của thị trường. Với bối cảnh hội nhập toàn cầu trong lĩnh vực ngân hàng mở ra rất nhiều cơ hội phát triển cho NHTM nhưng cũng phải hứng chịu rất nhiều các áp lực khi tham gia thị trường rộng lớn như áp lực cạnh tranh, áp lực công nghệ hiện đại, sự đa dạng về sản phẩm dịch vụ...đã khiến cho các NHTM buộc phải đổi mới quản trị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tạo nền tảng cho sự phát triển ổn định và bền vững.

Tóm lại, qua các phân tích trên, tác giả cho rằng bản thân hoạt động quản trị NHTM và hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng có mối tương quan vô cùng mật thiết và là mối quan hệ thuận chiều. Hiệu quả quản trị biểu hiện qua hiệu quả kinh doanh, do vậy suy cho cùng muốn biết hiệu quả quản trị của ngân hàng có tốt hay không ta sẽ phải đi tìm hiệu quả kinh doanh của NHTM để minh chứng. Một ngân


hàng có hoạt động quản trị tốt sẽ tạo nên một ngân hàng có hiệu quả kinh doanh tốt và ngược lại hiệu quả quản trị kém sẽ không đem lại hiệu quả kinh doanh cho Ngân hàng. Hiệu quả quản trị ngân hàng mang hàm ý do quản trị tốt mà ngân hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao và có năng lực cạnh tranh lớn trong kinh doanh trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Do vậy muốn tăng hiệu quả hoạt động quản trị kinh doanh cần nâng cao hiệu quả quản trị ngân hàng và đồng thời hiệu quả kinh doanh cũng có tác động ngược trở lại hiệu quả quản trị khi nó tạo điều kiện tiền đề cho việc quan tâm và đầu tư nâng cao hiệu quả quản trị ngân hàng.

2.2. Hiệu quả và nâng cao hiệu quả quản trị ngân hàng thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

2.2.1. Quan niệm về hiệu quả và nâng cao hiệu quả quản trị ngân hàng thương mại

2.2.1.1. Quan niệm về hiệu quả quản trị ngân hàng thương mại

Qua nghiên cứu tổng quan các quan niệm liên quan đến hiệu quả quản trị NHTM, tác giả nhận thấy đây tiếp tục là một khái niệm chưa có sự thống nhất.

Tác giả tán đồng với quan điểm của OECD [48] về vấn đề hiệu quả quản trị khi cho rằng hoạt động quản trị của công ty nói chung và của NHTM nói riêng chỉ được cho là có hiệu quả khi khích lệ được Ban giám đốc và HĐQT theo đuổi các mục tiêu vì lợi ích của ngân hàng và của các cổ đông, cũng như phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát hoạt động của ngân hàng một cách hiệu quả, từ đó khuyến khích ngân hàng sử dụng các nguồn lực một cách tốt hơn.

Bản chất NHTM cũng là một loại hình doanh nghiệp nhưng có những đặc trưng khác biệt hơn doanh nghiệp nên quản trị NHTM vừa phải tuân thủ quy định pháp luật quản trị doanh nghiệp (luật chung) và quy định của Luật các TCTD (luật riêng áp dụng đối với các ngân hàng), Luật Chứng khoán (luật riêng áp dụng đối với các doanh nghiệp có cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán). Hoạt động quản trị NHTM nhằm mục đích thiết lập cơ chế, quy trình để bảo đảm sự giám sát của cổ đông, nhà đầu tư, Ngân hàng Nhà nước và thị trường đối với hoạt động quản lý, điều hành của người quản lý, điều hành NHTM.


Xuất phát từ đặc thù của hoạt động NHTM, quản trị NHTM liên quan đến cả hai cấp độ vi mô (các ngân hàng đơn lẻ) và vĩ mô (sự ổn định hệ thống tài chính), bởi vì nó cung cấp động lực để kiểm soát ngân hàng, hiệu quả hóa việc kiểm soát và khuyến khích niềm tin của thị trường. Trong thực tiễn thực hiện hoạt động quản trị, các NHTM chịu sự can thiệp, tác động trực tiếp từ phía cơ quan giám sát ngân hàng

- cơ quan có nhiệm vụ đánh giá công tác quản trị của từng ngân hàng, bao gồm cả trình độ và đạo đức của các nhà quản lý cấp cao (Hội đồng quản trị, ban giám đốc) và cơ quan này phải có đủ quyền lực để can thiệp khi quản trị của ngân hàng bất ổn. Do đó, hiệu quả quản trị NHTM cần phải hướng tới mục tiêu tăng cường sự ổn định của thị trường tài chính thay vì tối đa hóa lợi nhuận. Khi tiếp cận quản trị NHTM theo hướng này, cả NHTM, cả cộng đồng cũng như cổ đông đều có lợi.

Theo lẽ đó, tác giả cho rằng hiệu quả quản trị NHTM được nhận diện ở sự ổn định của thị trường tài chính mang lại những ảnh hưởng tích cực đối với nền kinh tế và sau đó là đối với toàn xã hội. Đối với cổ đông ngân hàng, việc không hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận đương nhiên mang lại ít lợi nhuận hơn nhưng lại tăng thêm tính an toàn cho các khoản đầu tư của họ.

Hiệu quả quản trị NHTM được cho là kết quả phản ánh chiến lược, chiến thuật, phân tích, nghiên cứu, điều chỉnh, kiểm tra, quản trị tài chính, hoạt động marketing, quản trị nhân sự và điều hành các hoạt động của NHTM.

Tác giả cho rằng hiệu quả quản trị NHTM là một phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực như nhân lực, vật lực, tài lực để đạt được mục tiêu kinh tế cho ngân hàng và các chủ thể hưởng lợi có liên quan, đồng thời đảm bảo an toàn hoạt động, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng trong một thời gian cần thiết. Giá trị lợi ích thu được từ hiệu quả quản trị ngân hàng mang lại cũng đồng thời đem lại lợi ích về mặt xã hội trong tiến trình phát triển của đất nước. Hiệu quả quản trị ngân hàng thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của ngân hàng nhờ có quản trị đổi mới không ngừng, luôn luôn đúng đắn và chính xác, thân thiện, được bộ máy và nhân viên tin tưởng và làm việc hết mình vì sự thịnh vượng của ngân hàng.


2.2.1.2. Quan niệm về nâng cao hiệu quả quản trị ngân hàng thương mại

Nâng cao hiệu quả được hiểu như tìm giải pháp để nâng mức hiệu quả, qua thời gian nâng từ mức thấp lên mức cao. Hay nói cách khác, nâng cao là việc diễn ra trong quá trình phát triển mà các chỉ tiêu đo lường hiệu quả đạt được ở mức cao hơn. Nâng cao cũng có ý nghĩa chỉ sự cải thiện, tiến bộ và phát triển một bậc mới về mặt hiệu quả. Việc nâng cao hiệu quả quản trị NHTM được hiểu là hiệu quả quản trị được nâng lên nhờ đổi mới quản trị, đổi mới bộ máy, hoạt động quản lý và điều hành các hoạt động của NHTM.

Đặc biệt, cả lý thuyết và thực tiễn cho thấy rằng nâng cao hiệu quả quản trị được phản ánh qua nâng cao hiệu quả kinh doanh của NHTM. Nó có ngưỡng chứ không thể nâng cao một cách vô ngưỡng. Tức là việc nâng cao hiệu quả quản trị NHTM phải thực hiện ở mức hợp lý, bền vững và đem lại lợi ích cho cả NHTM và cho cả người lao động (nhân viên) làm việc trong ngân hàng cũng như đem lại lợi ích cho nền kinh tế quốc dân.

Tác giả muốn nhấn mạnh rằng nâng cao hiệu quả quản trị NHTM được hiểu là đưa hiệu quả quản trị NHTM từ mức một lên mức hai cao hơn, tiến bộ hơn nhằm tăng hiệu quả quản lý, vận hành, điều hành hoạt động kinh doanh của NHTM. Đặc biệt nhìn nhận việc nâng cao hiệu quả quản trị NHTM trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế còn thể hiện ở việc nâng cao năng lực quản trị ngân hàng hướng tới tiệm cận với các tiêu chuẩn quốc tế.

2.2.2. Đánh giá hiệu quả quản trị ngân hàng thương mại

Đánh giá hiệu quả quản trị ngân hàng thương mại có mục đích quan trọng giúp nhận biết rõ tình trạng quản trị, hiệu quả quản trị và hiệu quả kinh doanh của NHTM, để rồi từ đó xác định nhanh chóng định hướng đổi mới quản trị NHTM và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị NHTM. Để đánh giá hiệu quả quản trị NHTM phải có các chỉ tiêu định lượng.


2.2.2.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh

a) Mục đích đánh giá

Các hệ số tài chính là công cụ được sử dụng phổ biến nhất trong đánh giá, phân tích và phản ánh hiệu quả hoạt động của các NHTM ở cấp ngành và cấp quản lý của chính phủ. Mỗi hệ số cho biết mối quan hệ giữa hai biến số tài chính, qua đó cho phép phân tích và so sánh giữa các chi nhánh, giữa các ngân hàng và phân tích xu hướng biến động của các biến số này theo thời gian. Có nhiều loại hệ số tài chính được sử dụng để đánh giá các khía cạnh hoạt động khác nhau của một ngân hàng, các hệ số tài chính này bao gồm các chỉ số phản ánh khả năng sinh lợi, các chỉ số phản ánh hiệu quả hoạt động và các chỉ số phản ánh rủi ro tài chính của NHTM.

Do vậy, hiệu quả hoạt động của ngân hàng nên được đánh giá phù hợp trên nhiều góc độ như khả năng tạo ra lợi nhuận (thông qua các chỉ tiêu như ROA, ROE), khả năng chống đỡ các cú sốc (thông qua chỉ tiêu trung gian là CAR, tỷ lệ dự phòng/Nợ xấu), khả năng kiểm soat rủi ro, chất lượng tài sản (thông qua chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn).

Nghiên cứu tổng quan tác giả đã trình bày về mối tương quan giữa hiệu quả quản trị và hiệu quả kinh doanh NHTM, hiệu quả quản trị ngân hàng được biểu hiện qua hiệu quả kinh doanh, do vậy để đánh giá việc nâng cao hiệu quả quản trị NHTM suy cho cùng là ta đi tìm hiệu quả kinh doanh thông qua việc phân tích các chỉ số tài chính phản ánh hiệu quả. Ngoài việc đi truy xét hiệu quả kinh doanh thì tác giả tập trung vào nghiên cứu quan hệ giữa đổi mới quản trị ngân hàng với sự đổi mới tích cực về hiệu quả kinh doanh.

b) Chỉ tiêu đánh giá

Để đánh giá hiệu quả quản trị NHTM thông qua các chỉ tiêu tài chính phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM, tác giả tán đồng với nghiên cứu về các chỉ số lành mạnh tài chính FSIs của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF. Các chỉ số được tính toán và sử dụng phổ biến cho việc giám sát an toàn vĩ mô cũng như đánh giá và phát hiện điểm mạnh, điểm yếu của NHTM. Và để đạt được mục tiêu phân tích của


luận án, tác giả sử dụng một số các chỉ tiêu cốt lõi FSIs của IMF để đánh giá hiệu quả của đổi mới quản trị thông qua hiệu quả kinh doanh (Chi tiết tại Phụ lục số 10 ).

− Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) được xem là một chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ giữa tài sản có thể điều chỉnh rủi ro của NHTM và vốn tự có, là thước đo của mức độ vốn an toàn của ngân hàng. Hay nói một cách khác, CAR giúp NHTM xác định được khả năng thanh toán các khoản nợ có thời hạn hoặc không thời hạn của ngân hàng và những rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành mà ngân hàng có thể gặp phải.

Vốn tự có

CAR =


Tổng tài sản có rủi ro

− Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) là chỉ số đo lường mức độ hiệu quả của việc sử dụng vốn chủ sở hữu. Chỉ số này cho biết một đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra thì đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. ROE càng cao chính là dấu hiệu sử dụng vốn hiệu quả.

ROE =

Lợi nhuận sau thuế Vốn chủ sở hữu

− Tỷ suất sinh lời của tài sản (ROA) là tỷ số phản ánh mối tương quan giữa mức sinh lợi so với tài sản của một NHTM. Đây là chỉ số chủ yếu phản ánh tính hiệu quả của quản lý và chỉ ra rằng khả năng quản trị ngân hàng của giới lãnh đạo trong quá trình chuyển tài sản thành thu nhập ròng.

Lợi nhuận sau thuế

ROA =


Tổng tài sản

− Tỷ lệ lãi cận biên (NIM) phản ánh hiệu quả tạo vốn và sử dụng vốn của NHTM. NIM thể hiện năng lực của giới lãnh đạo ngân hàng trong việc duy trì sự tăng trưởng của các nguồn thu (chủ yếu các nguồn thu từ các khoản vay, đầu tư và phí dịch vụ) so với mức tăng của chi phí (chủ yếu là chi lãi tiền gửi, những khoản vay trên thị trường tiền tệ, chi phí nhân sự…).

(Tổng thu nhập – Tổng chi phí)

NIM =


Tổng tài sản



− Tỷ trọng thu nhập ngoài lãi (NII) phản ánh khả năng chuyển dịch cơ cấu thu nhập của ngân hàng trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hướng tới đa dạng hóa cơ cấu thu nhập có tính rủi ro thấp.

NII =

Thu nhập thuần ngoài lãi Tổng thu nhập hoạt động

− Tỷ lệ nợ xấu (NPL) phản ánh khả năng thu hồi vốn khó khăn, vốn của ngân hàng không còn ở mức rủi ro thông thường mà ở mức nguy cơ mất vốn. NPL càng thấp càng thể hiện mức độ lành mạnh của hoạt động tín dụng (theo quy định tỷ lệ này đảm bảo ở mức dưới 3%).

NPL =

Nợ xấu

Tổng dư nợ

− Năng suất lao động phản ánh hiệu quả công việc của mỗi nhân viên và cho biết rằng mỗi nhân viên tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận cho ngân hàng. Xét về góc độ quản lý, điều hành thì năng suất lao động thể hiện năng lực quản trị nhân sự và phân công, giao việc hiệu quả của giới lãnh đạo ngân hàng.

Tổng lợi nhuận sau thuế

Năng suất lao động =


Số lượng lao động

− Mức độ đóng góp cho nền kinh tế thể hiện thông qua tỷ trọng đóng góp cho ngân sách nhà nước (NSNN), vừa mang lại hiệu quả cho chính bản thân NHTM vừa mang lại hiệu quả cho nền kinh tế.

Tỷ trong đóng góp cho NSNN =

Số thuế thu nhập NHTM đã nộp

Tổng thu thuế doanh nghiệp của Nhà nước

2.2.2.2. Nhóm chỉ tiêu hiệu quả của đổi mới quản trị

a) Mục đích đánh giá

Để nhận biết rõ tác dụng, tác động của đổi mới quản trị NHTM đối với gia tăng hay giảm sút hiệu quả kinh doanh của NHTM. Từ việc đánh giá đó xác định phương hướng và giải pháp đổi mới quản trị NHTM cho những năm tiếp theo.

b) Chỉ tiêu đánh giá

Trên cơ sở quan sát thực tiễn và tham khảo ý kiến chuyên gia, phỏng vấn nhanh một số trưởng phòng ban tại các ngân hàng Vietcombank, Seabank và Techcombank

Xem tất cả 193 trang.

Ngày đăng: 08/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí