Tỷ Lệ Nợ Xấu Nhóm 5/tổng Dư Nợ Của Các Nhtmcp (2009-2014) (Đv%)


bạch thực chất nợ xấu thì có sự cách biệt giữa con số nợ xấu do NHTM và cơ quan giám sát NHNN công bố ( bảng 2.11). Thanh tra 9 tổ chức trong đề án tái cơ cấu, NHNN phát hiện có tổ chức tín dụng tỷ lệ nợ xấu lên tới 30%, 60%, thậm chí một số tổ chức còn lỗ đến mức âm vốn điều lệ [24]. Những nguyên nhân dẫn đến tình trạng “vênh” giữa con số nợ xấu do các ngân hàng và cơ quan giám sát của NHNN công bố có thể kể đến là:

Thứ nhất: Các ngân hàng này đã không thực hiện đúng quy định về phân loại nợ, ghi nhận nợ xấu thấp hơn thực trạng và quy định để giảm chi phí trích lập dự phòng rủi ro, đồng thời có báo cáo tài chính đẹp hơn.

Trước quý 1/2015 ( Trước thời điểm chính thức thực hiện việc phân loại nợ theo tinh thần của thông tư 02/2013/TT- NHNN),theo quyết định 493/2005/QĐ- NHNN và quyết định 18/2007/QĐ-NHNN việc phân loại nợ của các NHTM được dựa trên yếu tố định lượng hay định tính. Đồng thời, theo quyết định này,NHTM cũng được phép chủ động phân loại nợ vào nhóm rủi ro cao hơn theo đánh giá của NHTM khi có những diễn biến bất lợi tác động đến hoạt động kinh doanh của khách hàng, các chỉ tiêu tài chính của khách hàng bị suy giảm…Tuy nhiên, việc phân loại nhóm nợ như thế nào, đánh giá ra sao là các diễn biến bất lợi, các chỉ tiêu tài chính suy giảm lại hoàn toàn phụ thuộc vào các NHTM chứ không có quy định rõ ràng. Đó là còn chưa kể đến việc chia sẻ thông tin phục vụ cho công tác phân loại nợ giữa các ngân hàng chưa có qui định chặt chẽ và mang tính bắt buộc, nên việc phân loại nợ của ngân hàng thiếu tính thống nhất. Điều này tạo nên kẽ hở để các NHTM che dấu tình trạng rủi ro thực tế nhằm làm đẹp hình ảnh cho ngân hàng.

Thứ hai: Nhiều NHTM đã quá lạm dụng trong việc cơ cấu lại nợ hay cho vay đảo nợ nhằm làm đẹp bảng tổng kết của ngân hàng.

Một trong những biện pháp mà các NHTM thường sử dụng để hỗ trợ cho khách hàng gặp khó khăn trong việc thực hiện kế hoạch trả nợ cho ngân hàng là điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ. Tuy nhiên, biện pháp này đòi hỏi ngân hàng phải đánh giá kỹ khả năng trả nợ đầy đủ gốc và lãi đúng hạn của khách hàng. Trên thực tế, do những yếu tố chủ quan từ phía cán bộ tín dụng mà đôi khi việc cho vay đảo nợ hoặc cơ cấu lại nợ chỉ nhằm giải quyết những khó khăn trước mắt trong việc trả nợ của khách hàng. Chính vì vậy tỷ lệ nợ xấu được công bố thấp hơn nhiều so với thực tế.


Nhìn vào diễn biến nợ xấu qua các năm thì năm 2009 được được coi là “khả dĩ”nhất. Bởi sau một năm đầy khó khăn (năm 2008),nhờ vào những chính sách kích cầu của nhà nước trong năm 2009 mà các doanh nghiệp đã phần nào tháo gỡ được khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, phục hồi sản xuất để thu hồi vốn trả nợ cho ngân hàng. Nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng năm 2009 đã giảm từ 2,17 xuống còn 2,05% và nợ xấu trung bình 3 nhóm NHTMCP cũng giảm mạnh từ 1,85% xuống còn 1,39%. Tuy nhiên, chính sách nới lỏng tín dụng trong năm 2009 chỉ giúp cho các doanh nghiệp giải quyết những khó khăn vướng mắc tạm thời mà chưa giải quyết triệt để những khó khăn cho các doanh nghiệp. Chính vì vậy, mức bơm tín dụng mạnh trong năm 2009 trong khi những biến động của thị trường vẫn ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các doanh nghiệp như biến động giá ngoại tệ, lãi suất vay lại có chiều hướng tăng khiến nợ xấu của các NHTMCP lại tăng trở lại. Điều đáng nói ở đây là nếu mức nợ xấu của toàn hệ thống trong năm 2010 không có sự thay đổi nhiều, trong khi ở các NHTMCP lại có sự gia tăng mạnh mặc dù vẫn thấp hơn mặt bằng chung. Nguyên nhân của tình trạng này là do trong hai năm 2009 và 2010, tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NHTMCP cao hơn hẳn tốc độ tăng trưởng chung của toàn hệ thống. Việc tăng trưởng quá mức khiến chất lượng tín dụng chưa thực sự được đặt lên hàng đầu cùng với bối cảnh hoạt động vẫn tiềm ẩn rủi ro khiến tỷ lệ nợ xấu của các NHTMCP tăng mạnh.

Năm 2011 là một năm thực sự ảm đảm với những chỉ số kinh tế vĩ mô xấu như lạm phát tăng cao (từ mức 6,6% năm 2010 lên mức 18,13%), suy giảm kinh tế (tăng trưởng kinh tế sụt giảm từ 6,78% xuống còn 5,89%) đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các TCTD nói chung cũng như các NHTMCP nói riêng. Do lạm phát tăng cao cũng như tình trạng thiếu hụt thanh khoản tại các NHTM nên mặt bằng lãi suất huy động cũng như cho vay gia tăng mạnh. Việc vay vốn với lãi suất cao làm gánh nặng chi phí của các doanh nghiệp tăng khiến cho tình trạng tài chính của các NHTM ngày càng trở nên xấu hơn. Thị trường bất động sản đóng băng đã kéo theo những phản ứng dây chuyền đến nhiều lĩnh vực khác làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng trầm lắng. Sản xuất đình trệ do lãi suất tăng cao kết hợp với những khó khăn của thị trường tiêu thụ sản phẩm đã dồn nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng không thể thu hồi vốn để trả nợ ngân hàng. Đó chính là lý do khiến tỷ lệ xấu của ngân hàng cổ phần vẫn tiếp tục gia tăng trong năm 2011. Tuy nhiên, nếu


xét về tốc độ tăng của nợ xấu trung bình 3 nhóm NHTMCP được lấy số liệu, thì mức tăng tỷ lệ nợ xấu của các NHTMCP vẫn thấp hơn mức tăng của toàn hệ thống ngân hàng. Trong đó, mức tăng lớn nhất lại thuộc về nhóm NHTMCP vừa. Điều đáng nói ở đây là không chỉ nợ xấu bộc lộ qua số liệu trong năm mà còn tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro cho các NHTM. Do tình trạng “thiếu trước, hụt sau”của các doanh nghiệp, nên cho dù lãi suất cao thì các doanh nghiệp vẫn phải cố gắng vay vốn để duy trì hoạt động cho dù ít lĩnh vực đầu tư nào có thể đem lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn lãi suất vay vốn ngân hàng. Vì xét cho đến cùng, nguồn vốn tín dụng ngân hàng gần như là nguồn vốn duy nhất để các doanh nghiệp trông đợi. Hoặc giả định, nhưng doanh nghiệp dám vay vốn cao như vậy là do họ đang hoạt động trong những lĩnh vực sinh lời cao. Mà nguyên lý kinh doanh là tỷ suất lợi nhuận càng cao, rủi ro sẽ càng lớn, cho nên nếu trong năm mà ngân hàng nào có mức độ tăng trưởng tín dụng càng cao thì nguy cơ tiềm ẩn rủi ro sẽ càng lớn.

Tình trạng lún sâu vào suy giảm kinh tế trong năm 2012 tiếp tục lại đổ dồn những khó khăn lên các NHTM. Mặc dù trong năm 2012, lạm phát về cơ bản đã được kiểm soát, chính sách chi tiêu ngân sách nhà nước cũng giảm bớt tình trạng thắt chặt. Nhưng do những yếu kém vốn có và những cú sốc của nền kinh tế, đặc biệt chi phí vay vốn ngân hàng tăng cao đã khiến nhiều doanh nghiệp “suy kiệt” cũng như khó có thể “gượng dậy”. Thị trường tiêu thụ tiếp tục đóng băng cho dù không ít giải pháp của chính phủ được đưa ra để giải cứu thị trường. Vì vậy, mặc dù tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân của 3 nhóm NHTMCP trong năm 2012 là 12,63% thì tốc độ tăng nợ xấu lên tới trên 60%. Trong đó, tốc độ tăng lớn nhất thuộc về nhóm các NHTMCP lớn vì con số nợ xấu của ngân hàng SHB tăng vọt do giải quyết những hậu quả của NHTMCP Habubank. Tuy nhiên, mặt bằng nợ xấu lại cao nhất ở nhóm NHTMCP nhỏ với tỷ lệ nợ xấu là 4,36%, tăng 1,51% so với năm 2011.Hầu hết tỷ lệ nợ xấu của các NHTMCP nhóm nhỏ trong năm 2012 đều tăng cao như NHTMCP Xăng dầu là 8,4%, NHTMCP Nam Việt 5,64%, NHTMCP Bảo Việt là 5,94%. Với các NHTMCP nhỏ, năm 2012 vẫn là một năm đầy sóng gió, những yêu cầu của quá trình tái cấu trúc đã lộ diện các ngân hàng bắt buộc phải được tái cơ cấu theo yêu cầu của NHNN. Sự không minh bạch thông tin đã khiến nợ xấu của những ngân hàng này bị che dấu, nó không phải chỉ là vấn đề của năm 2012


mà thực ra những yếu kém và chất lượng tín dụng của những ngân hàng này đã tiềm ẩn từ trước. Con số nợ xấu được tính toán trên chỉ mới dựa vào báo cáo tài chính theo công bố của các ngân hàng, còn trên thực tế qua công tác thanh tra, giám sát của NHNN thì con số nợ xấu còn cao hơn rất nhiều. Trong một cuộc đua tranh không cân sức, dĩ nhiên ngân hàng nào có quy mô nhỏ bé cũng như năng lực quản trị yếu kém hơn sẽ yếu thế hơn. Và nếu trong cuộc chơi đó, những ngân hàng nhỏ không tự cân sức để tìm ra một hướng đi riêng phù hợp mà cố sức đương đầu với các đối thủ cạnh tranh có nhiều lợi thế hơn thì mức độ rủi ro mà ngân hàng phải chấp nhận đương nhiên cũng cao hơn.

Những thành công trong việc kiểm soát và xử lý nợ xấu được thể hiện trong giai đoạn 2013-2014 khi tỷ lệ nợ xấu trung bình của các NHTMCP có xu hướng giảm dần, đặc biệt đã nằm trong giới hạn an toàn theo quy định của NHNN trong năm 2014. Tuy nhiên, nếu nhóm các NHTMCP nhỏ khá thành công trong việc xử lý nợ xấu thì với nhóm các NHTMCP vừa lại có dấu hiệu ngược lại khi tỷ lệ nợ xấu tăng cao hơn so với năm 2013. Kết quả này do có tình trạng tăng đột biệt nợ xấu tại một số NHTMCP trong nhóm như NHTMCP Phương nam, NHTMCP Oceanbank, NHTMCP Đông á. Đây là những ngân hàng phải sát nhập vào các ngân hàng khác hay bị đưa vào diện kiểm soát đặc biệt của NHNN.

Nợ xấu của các NHTM tuy có được cải thiện nhưng vẫn ở mức cao và là vấn đề cấp bách hiện nay với nhiều NHTMCP trước những giải pháp có tính kỷ luật cao của NHNN. Bởi không chỉ tỷ lệ nợ xấu vẫn cao mà còn trong cơ cấu nợ xấu thì nợ xấu nhóm 5 (Nợ có nguy cơ mất vốn) chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng tăng dần (Bảng 2.12).Tình trạng này khiến không ít NHTMCP có mức lợi nhuận âm, ăn mòn vốn chủ sở hữu của các ngân hàng [24]

Bảng 2.12: Tỷ lệ nợ xấu nhóm 5/Tổng dư nợ của các NHTMCP (2009-2014) (ĐV%)


NHTM

2009

2010

2011

2012

2013

2014

NHTMCP lớn

0,61

0,51

0,51

1,4

1,6

1,48

NHTMCP vừa

1,01

0,63

0,8

1,5

1,83

1,68

NHTMCP nhỏ

0,57

0,43

1,53

1,03

1,92

1,01

Trung bình 3 nhóm

0,73

0,52

0,95

1,3

1,78

1,39

Nợ xấu nhóm 5/tổng nợ xấu

56,6

29,5

42,6

37,5

57,1

52,5

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.

Nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam hiện nay - 14

Nguồn: [51]


Cho dù màu xám của bức tranh kinh tế đã dần thu hẹp với những con số thể hiện như lạm phát xuống thấp nhất trong vòng một thập kỷ lại đây, lãi suất tín dụng giảm nhanh, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội để tiếp cận với những nguồn vốn giá rẻ. Nhưng tình trạng đóng băng của thị trường vẫn hoàn toàn chưa được tháo gỡ nên việc thu hồi các khoản tín dụng của ngân hàng vẫn hết sức khó khăn. Vấn đề cốt lõi trong việc hạn chế nợ xấu giờ đây đã trở nên quá sức đối với các NHTM, nó cần một sự hợp lực và đồng bộ của nhiều giải pháp hỗ trợ của các nhà quản lý chứ không chỉ dừng lại ở những nỗ lực riêng của các NHTMCP

2.2.4. Quy mô và tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn huy động giai đoạn 2009- 2014

Không ai có thể phủ nhận vai trò của nguồn vốn huy động đối với các NHTM cũng như đối với nền kinh tế. Mặc dù trong hai năm 2013 và 2014, vấn đề huy động vốn không còn quá “nóng”đối với các NHTM, nhưng với các NHTMCP thì bài hoc đắt giá về công tác huy động vốn trong giai đoạn 2008- 2011 luôn là vấn đề cảnh báo cho công tác quản trị nguồn vốn của ngân hàng .

99


Bảng 2.13: Qui mô và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của các NHTMCP*. (ĐV: Tỷ VND)


NHTMCP

2009

2010

2011

2012

2013

2014



Số tiền


Số tiền


% tăng


Số tiền


% tăng


Số tiền


% tăng


Số tiền

%

tăng


Số tiền


% tăng

NHTMCP lớn

393.713

556.294

41,3

649.086

16,7

717.650

10,6

797.532

11,1

918.831

15,2

NHTMCP vừa

147.142

256.401

74,3

287.858

12,3

338.072

17,4

423.005

25,1

497.225

17,6

NHTMCP nhỏ

55.778

81.024

45,26

90.433

11,61

101.617

12,37

132.105

30

148.637

12.5

Trung bình 3 nhóm

198.878

297.906

49,82

342.459

14,95

385.780

12,65

450.881

16,88

521.574

15,68

Tốc độ tăng toàn hệ thống



36,2


12,4


16


15,6


14,4

Nguồn: [51] [12]

* Chỉ bao gồm vốn huy động từ tiền gửi và phát hành giấy tờ có giá của TCKT, dân cư.


So sánh về tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của các NHTMCP và tốc độ tăng của toàn hệ thống cho thấy tốc độ tăng của các NHTMCP luôn lớn hơn, nhất là trong năm 2009 và 2010. Sở dĩ tốc độ tăng huy động vốn trong hai năm 2009 – 2010 ở các NHTMCP luôn cao bởi những ngân hàng này thường sử dụng công cụ lãi suất để cạnh tranh trong việc huy động vốn. Trong khoảng thời gian trước tháng 12/2010 khi NHNN chưa áp trần lãi suất huy động vốn, các NHTMCP có xu hướng đẩy lãi suất huy động tăng cao để tăng cường nguồn vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế. Tình trạng khát vốn của các NHTMCP xuất phát từ những hai lý do:

Thứ nhất: Năm 2008, do tốc độ tăng trưởng tín dụng cao trong giai đoạn thị trường chứng khoán phát triển nóng (2005- 2007) đã khiến tốc độ tăng trưởng huy động vốn không theo kịp với tốc độ tăng trưởng tín dụng. Mặt khác, lạm phát tăng cao buộc NHNN phải sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ làm cho thanh khoản của nhiều ngân hàng bộc lộ khó khăn, nhất là các NHTM nhỏ. Chính vì vậy, sang năm 2009 mặc dù thanh khoản của nhiều ngân hàng không quá căng thẳng, lãi suất thị trường đầu năm có xu hướng giảm nhưng nhiều NHTMCP vẫn tìm mọi cách đẩy lãi suất lên cao hơn mặt bằng chung để thu hút vốn huy động trên thị trường. Đó cũng chính là nguyên nhân mà năm 2009, trong các nhóm NHTMCP thì tốc độ tăng trưởng huy động vốn lớn nhất thuộc về các NHTM nhỏ, sau đó đến nhóm các NHTMCP vừa và cuối cùng thấp nhất lại là các NHTMCP lớn.

Thứ hai: Việc nới lỏng chính sách tiền tệ của NHNN trong năm 2009 nhằm thực hiện kích cầu nên tăng trưởng tín dụng của các NHTM nói chung và các NHTMCP nói riêng tăng mạnh. Diễn biến của giá vàng, bất động sản, ngoại tệ có dấu hiệu gia tăng nên đã hút mạnh một lượng vốn nhàn rỗi đầu tư vào những vàng, ngoại tệ cũng như bất động sản trong bối cảnh lạm phát có dấu hiệu tăng trở lại. Điều này đã khiến kênh huy động vốn vào ngân hàng trở nên kém hấp dẫn. Chính vì vậy, để có thể cạnh tranh với các kênh đầu tư khác, các NHTMCP đã nâng lãi suất lên để tranh thủ thu hút nguồn vốn tiền gửi trên thị trường. Năm 2010 là năm chứng kiến nhiều cuộc đua tranh về lãi suất để “giành giật”nguồn vốn huy động giữa các ngân hàng, đặc biệt là các NHTMCP.


Trước tình trạng “lộn xộn”của các NHTM trong việc sử dụng lãi suất làm công cụ cạnh tranh huy động vốn, nên ngày 15/12/2010 NHNN đã phải chính thức đưa ra quy định áp trần lãi suất trong huy động vốn nhằm lập lại trật tự trong công tác huy động vốn. Vòng xoáy lạm phát và các biện pháp thắt chặt tiền tệ của NHNN lại trong năm 2011 đã khiến việc huy động vốn của các NHTMCP với tốc độ giảm mạnh so với hai năm trước đó. Tốc độ tăng trưởng trung bình của 3 nhóm NHTM chỉ còn là 14,95% so với mức 49,82% của năm 2010. Trong năm này, nếu đứng trên góc độ tổng thể với nhu cầu tín dụng giảm mạnh bởi suy giảm tăng trưởng của nền kinh tế thì nguồn vốn huy động hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu đầu tư cho vay. Tuy nhiên, về cục bộ thì lại diễn ra tình trạng căng thẳng nguồn vốn ở một số các NHTMCP do những yếu kém về thanh khoản.Chính sức ép huy động vốn của những ngân hàng này khiến cho thị trường huy động vốn vẫn được coi là “nóng”trong năm 2011. Mặc dù vẫn áp trần lãi suất huy động vốn, nhưng tình trạng xé rào lãi suất huy động vẫn âm thầm diễn ra ở một số các NHTMCP. Những NHTMCP nhỏ là những ngân hàng hết sức khó khăn trong công tác huy động vốn nên thường có xu hướng “xé rào”lãi suất, phản ứng dây truyền đã tạo ra những dịch chuyển vốn trong hệ thống ngân hàng rất mạnh mẽ, trong khi quy mô và tốc độ tăng trưởng vốn toàn hệ thống không cao.

Bước sang năm 2012, do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế nên nhu cầu vốn tín dụng sụt giảm, hơn nữa lạm phát đã được khống chế và đẩy lùi, giá vàng, ngoại tệ ổn định nên việc huy động vốn của các NHTM nói chung cũng như NHTMCP nói riêng có nhiều thuận lợi.Tốc độ tăng trưởng vốn của toàn hệ thống cao hơn so với tốc độ tăng trưởng vốn tín dụng. Việc huy động vốn có chăng chỉ “ấm”hơn do ảnh hưởng của yếu tố thời vụ. Một số NHTMCP nhỏ xảy ra tình trạng căng thẳng thanh khoản do nợ xấu gia tăng đã được NHNN công bố và khoanh vùng cùng với những giải pháp tái cơ cấu được công bố, chính vì vậy có thể nói công tác huy động vốn của các NHTM đã bước ra khỏi thời kỳ khó khăn.

Mặc dù tốc độ tăng trưởng huy động vốn đã cao hơn hẳn so với tốc độ tăng trưởng tín dụng, thậm chi còn được đánh giá là thừa vốn huy động. Nhưng trong năm 2013, tình trạng cạnh tranh lãi suất vẫn diễn ra một số NHTM cho dù không “sôi động”như trong thời kỳ căng thẳng vốn mà diễn ra một cách âm thầm. Sở dĩ có

Xem tất cả 224 trang.

Ngày đăng: 29/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí