động đồng thời 2 lớp phòng vệ, còn lại 6/9 NHTM thì đã tách biệt rõ ràng theo mô hình quản trị rủi ro 3 lớp phòng vệ (Hình 3.8). Kết quả khảo sát thực hiện bởi Ngân hàng BIDV cũng cho kết quả 77% các ngân hàng đã tách biệt riêng các bộ phận tổ chức theo chức năng kinh doanh, kiểm soát và quản lý rủi ro và khối tác nghiệp. Một số ít các ngân hàng (7%) chỉ tách bạch thành 2 khối kinh doanh và hỗ trợ tác nghiệp hoặc chưa thực hiện tách bạch thành khối chức năng và hỗ trợ tác nghiệp [29]. Khi triển khai mô hình mới, sự phân tách bộ phận quan hệ khách hàng, quản lý rủi ro tín dụng và quản lý nợ đã tạo nên những khối chức năng độc lập nhưng lại không liên kết chặt chẽ, đôi khi còn cản trở nhau trong tác nghiệp.
Hình 3.8: Mô hình quản lý rủi ro tại các NHTM Việt Nam
Nguồn: Tổng hợp dựa trên khảo sát 10 NHTM, 3/2016
Các khảo sát đều cho thấy đã có sự thay đổi cơ bản trong cơ cấu tổ chức bộ máy và quy trình cấp tín dụng của một số NHTM Việt Nam. Phương thức quản lý rủi ro của ngân hàng gồm hai loại chính: (i) Mô hình QLRR tập trung, có sự tách biệt độc lập 3 chức năng kinh doanh, quản lý rủi ro và kiểm soát; (ii) Mô hình QLRR phân tán chưa có sự tách bạch giữa các chức năng và chịu trách nhiệm đối với mọi khâu trong việc cấp tín dụng đối với khách hàng.
Đối với công nghệ hỗ trợ quá trình phê duyệt, nhiều ngân hàng đã có hệ thống chương trình phần mềm hỗ trợ việc phê duyệt tín dụng tập trung tại Hội sở chính, xếp hạng tín dụng tập trung. Các chuyên gia về QTRRTD tại VPBank, VCB, BIDV đều nhận định chung về hệ thống thông tin tín dụng tại các NHTM Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng được các yêu cầu chính xác và giảm thiểu tình trạng thông tin bất cân xứng. Mặc dù có nhiều trở ngại trong xây dựng mô hình QTRRTD nhưng mô hình mới này tách bạch giữa bộ phận tiếp thị và bộ phận thẩm định giúp cho các quyết định cấp tín
dụng mang tính khách quan hơn, phản biện tín dụng sâu sắc và chính xác hơn, giúp nhận dạng các rủi ro tiềm năng, từ đó có các biện pháp phòng ngừa thích hợp.
Quản lý và xử lý thu hồi nợ xấu: Phần lớn các NHTM có xu hướng giao toàn bộ nợ xấu sang Công ty/Trung tâm chuyên trách để thực hiện tập trung quản lý, xử lý, thu hồi nợ xấu (các công ty AMC của các NHTM), còn một số các ngân hàng vẫn thực hiện quản lý nợ xấu theo phương pháp cũ, tức là do bộ phận quản lý nợ tại chi nhánh chịu trách nhiệm.
Quản lý và định giá tài sản đảm bảo (TSĐB): Các NHTM thường sử dụng công ty định giá độc lập, thuộc ngân hàng để định giá TSĐB của khách hàng vay, xu hướng là do AMC trực thuộc đảm nhận hoặc ngân hàng thuê thẩm định độc lập nhằm tăng tính độc lập khách quan trong quá trình định giá TSĐB.
Quá trình tìm hiểu, khảo sát, đánh giá về văn hóa rủi ro tại các NHTM Việt Nam gắn với quá trình nâng cao năng lực QTRRTD tác giả nhận thấy sự cải thiện đáng kể nhưng vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết triệt để như (i) Thái độ chưa sẵn sàng chia sẻ thông tin; (ii) Chưa thực sự mong muốn công khai minh bạch thông tin; (iii) Ý thức tuân thủ luật lệ, quy định, quy chế không đồng đều; (iv) Đạo đức nghiệp vụ tín dụng và các nghiệp vụ khác liên quan chưa tốt, lợi ích cá nhân, thành tích, thiếu trung thực với công việc.
Năng lực quản trị điều hành QTRRTD tại các NHTM Việt Nam còn yếu, khái niệm, chức năng chưa theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II. Các NHTM chưa xác định rõ ràng khẩu vị rủi ro, khả năng chịu đựng rủi ro, giới hạn rủi ro, làm thế nào để nâng cao quy trình, kiểm soát và các nguồn lực theo chuẩn mực quốc tế. Thêm vào đó, cơ chế giám sát kiểm tra nội bộ ngân hàng trong quá trình từ khi khởi tạo tín dụng, phê duyệt tín dụng, sau khi cấp tín dụng còn nhiều hạn chế, các kỹ thuật giảm thiểu rủi ro còn chênh lệch tương đối lớn so với thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II.
3.2.4. Năng lực nguồn nhân lực (NLNL)
Đánh giá năng lực nhân sự tại các NHTM là xem xét trình độ, năng lực của từng nhân sự tham gia trong quy trình QTRRTD, đặc biệt là mức độ am hiểu mô hình kinh tế lượng hỗ trợ việc xây dựng và ứng dụng mô hình đo lường rủi ro tín dụng.
Trước hết, xét về nhân lực của Khối QTRR, theo kết quả khảo sát [29], chỉ có 14% số ngân hàng được khảo sát có tỷ lệ nhân viên thuộc khối QTRR tại chi nhánh và Trụ sở chiếm 3% so với tổng số nhân sự tại ngân hàng, tỷ lệ 1 - 3 % tại 46% số
ngân hàng, còn lại chỉ chiếm khoảng 1% [29]. Trên thế giới, tỷ lệ này thường là 1 – 5%, điều này cho thấy nguồn nhân lực cho công tác QTRR tại các NHTM Việt Nam thậm chí còn chưa thể đáp ứng về số lượng, chưa tính đến chất lượng. Ngoài ra, các tài liệu phân tích ngân hàng của các công ty tư vấn [7],[37], đánh giá chất lượng năng lực nhân sự tại các NHTM hiện nay có thể tổng hợp như sau:
Một là, nhận thức về QTRRTD theo thông lệ quốc tế và Basel II tại các NHTM Việt Nam đã có nhiều chuyển biến.
Kết quả khảo sát tại các NHTM đối với năng lực nhân sự là điểm mạnh cũng như điểm yếu trong quá trình triển khai Basel II (hình 3.4 và hình 3.9). Tìm hiểu thực tế mâu thuẫn này, các NHTM cho biết nguồn nhân lực triển khai Basel II đã được chuẩn bị về kiến thức QTRRTD mới nhưng vẫn còn số lượng lớn cán bộ chưa được trang bị kiến thức về các công cụ, phương pháp QTRRTD hiện đại, thông lệ quốc tế, quy định Basel II, Basel II.
Các NHTM có các dự án liên quan đến kế hoạch triển khai Basel II như Dự án triển khai áp dụng Basel II (Ngân hàng Hàng Hải); Dự án phân tích chênh lệch GAP (BIDV, VPB, TCB), Dự án xây dựng hệ thống XHTD (SCB, BIDV, MB, VPB, TCB); Dự án nâng cao năng lực QTRRTD (TCB). Tính đến cuối năm 2015 thì tất cả 10 NHTM đã hoàn thành việc phân tích chênh lệch giữa QTRR hiện tại so với quy định của Basel II. Kết quả là, nhận thức và hiểu biết về QTRRTD theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II đã được nâng cao trong các NHTM từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất.
Hai là, đội ngũ nhân sự am hiểu về kinh tế lượng tại các NHTM còn thiếu và chưa đáp ứng yêu cầu Basel II
Việc lượng hóa rủi ro đều được phát triển trên nền tảng lý thuyết khá phức tạp và mới đối với ngành kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam. Trong khi đó, trên thị trường nhân lực nói chung và tại các NHTM nói riêng còn rất thiếu những nhân viên am hiểu về kiến thức QTRRTD, chưa có khả năng xây dựng và sử dụng các mô hình lượng hóa. Hầu hết các NHTM đã hoặc đang nghiên cứu việc lượng hóa rủi ro tín dụng đều thuê chuyên gia tư vấn chuyên nghiệp, thuê các nhân sự cao cấp nước ngoài giữ các vị trí quan trọng như Giám đốc khối QTRR nhằm tận dụng các kinh nghiệm quản trị của hệ thống QTRR quốc tế. Tuy nhiên, nếu không am hiểu và làm chủ được mô hình thì các NHTM sẽ gặp khó khăn khi sử dụng mô hình, đánh giá tính chính xác các kết quả
do mô hình tạo ra cũng như nâng cấp mô hình. Do đó, các NHTM đang từng bước nâng cao năng lực, chất lượng nguồn nhân lực, từng bước cải thiện năng lực nguồn nhân lực trong khung năng lực QTRRTD tại các NHTM Việt Nam.
3.2.5. Năng lực cơ sở hạ tầng tin học (HTTH)
Đánh giá năng lực cơ sở hạ tầng của các NHTM Việt Nam về nền tảng công nghệ thông tin, hệ thống thông tin, dữ liệu rủi ro tín dụng, từ bảng khảo sát nhóm 10 NHTM, kết quả trả lời từ câu hỏi: “Những điểm mạnh của NHTM trong quá trình triển khai Basel II và Khó khăn trong quá trình triển khai Basel II, thì năng lực về CNTT và cơ sở hạ tầng là vừa là điểm mạnh, lại vừa là vấn đề khó khăn trong quá trình triển khai Basel II tại các ngân hàng (5/27 ý kiến tổng hợp từ 9 NHTM), cụ thể:
Hình 3.9: Những điểm mạnh của NHTM trong quá trình triển khai Basel II
Nguồn: Tổng hợp dựa trên khảo sát 10 NHTM, 3/2016
Kết quả khảo sát chỉ ra rằng, các NHTM trong nhóm được lựa chọn triển khai Basel II đã có lộ trình chuẩn bị về hệ thống CNTT, cơ sở dữ liệu như xây dựng hệ thống khởi tạo khoản vay LOS, hệ thống quản lý tài sản đảm bảo, hệ thống quản lý thu hồi nợ, hệ thống quản lý văn bản, công cụ tính toán vốn , cụ thể như hình 3.10
Hình 3.10: Khảo sát hệ thống CNTT tại các NHTM
Nguồn: Tổng hợp dựa trên khảo sát 10 NHTM, 3/2016
Từ kết quả cho thấy nhóm các NHTM có thành quả nhất định về hệ thống CNTT, hầu hết các NHTM đã xây dựng được hệ thống khởi tạo khoản vay, hệ thống quản lý TSĐB, công cụ tính toán vốn (5/9 NHTM được khảo sát), hệ thống quản lý thu hồi nợ và hệ thống quản lý văn bản (6-7/9 ngân hàng khảo sát đã xây dựng).
Các công cụ quản lý rủi ro định lượng là một phần không thể thiếu của công tác QTRR, đánh giá về năng lực cơ sở hạ tầng thông tin gồm (CNTT, cơ sở dữ liệu) tại các NHTM còn một số những hạn chế như sau:
Một là, cơ sở hạ tầng CNTT chưa đáp ứng đủ thông tin, dữ liệu
(i) Dữ liệu vĩ mô: để áp dụng được các tiêu chuẩn Basel II, các NHTM phải thu thập được một lượng lớn các dữ liệu vĩ mô như dữ liệu về lãi suất chuẩn của thị trường, tỷ giá giao dịch, dữ liệu phân tích hành vi khách hàng, mức rủi ro, độ lệch chuẩn, xác suất vỡ nợ theo ngành nghề, lĩnh vực. Tại Việt Nam chưa có một tổ chức chuyên nghiệp nào lưu giữ và khai thác các nguồn dữ liệu này, khả năng thu thập đủ và đạt độ tin cậy là thấp, thậm chí là chưa thể.
(ii) Dữ liệu của các NHTM: Trên thực tế, các ngân hàng cần đối chiếu khoảng trên 2,000 yêu cầu của Basel II về QTRR liên quan đến tổng thể các vấn đề QTRR được quy định trong 3 trụ cột của Basel II. Nếu tính đến các yêu cầu về dữ liệu phục vụ các phương pháp tính toán vốn, tổng số dữ liệu có thể lên tới 600 trường dữ liệu cho riêng rủi ro tín dụng, 300 trường dữ liệu cho rủi ro thị trường và 180 trường dữ liệu cho rủi ro hoạt động. Việc lượng hóa rủi ro tín dụng đòi hỏi các
NHTM phải có cơ sở dữ liệu đầu vào lớn và chính xác. Mặc dù, một số NHTM đã có xây dựng hệ thống thông tin khách hàng thông qua hệ thống XHTD nội bộ nhưng chưa thể đáp ứng các tiêu chuẩn quy định theo Basel II.
Như vậy, cơ sở dữ liệu để xây dựng công cụ đo lường rủi ro tín dụng là rào cản lớn nhất, hạn chế khả năng áp dụng các mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam
Hai là, CNTT chưa đồng bộ, chưa thực sự khai thác tốt các tính năng tiên tiến của hệ thống công nghệ thông tin. Tại hầu hết các NHTM, hệ thống XHTD nội bộ thậm chí còn đang vận hành thủ công (file excel) hoặc các chương trình phần mềm đơn giản (chấm điểm RRT-VPB), không có đầy đủ các tính năng hỗ trợ như chiết xuất báo cáo, tổng hợp báo cáo chưa linh hoạt. Hệ thống XHTD nội bộ chưa được tích hợp vào hệ thống phê duyệt tín dụng, hệ thống phân loại nợ, hệ thống phân loại TSĐB gây bất cập trong việc quản lý khoản cấp tín dụng. Khảo sát thực tế cho thấy, hạ tầng CNTT của các NHTM không đồng đều cũng trở thành thách thức trong việc xây dựng và ứng dụng các mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó, chi phí đầu tư cho hệ thống CNTT lớn trong khi năng lực tài chính của các NHTM còn thấp là khó khăn lớn đối với đội ngũ lãnh đạo, HĐQT trong việc thực hiện triển khai hệ thống CNTT đáp ứng công tác lượng hóa rủi ro tín dụng.
3.2.6. Năng lực bộ máy kiểm toán nội bộ (KTNB)
Trong mô hình quản trị rủi ro 3 lớp phòng vệ thì KTNB là lớp phòng vệ cuối cùng với vai trò chính liên quan đến việc đưa ra sự đảm bảo là các rủi ro được đánh giá phù hợp, đánh giá các quy trình QTRR, đánh giá việc báo cáo định kỳ các rủi ro chính, rà soát việc quản lý các rủi ro chính, đánh giá phù hợp của quy trình QTRR hiện tại thông qua so sánh quy trình QTRR của tổ chức mình với các ngân hàng khác. Đánh giá năng lực bộ máy Kiểm toán nội bộ (KTNB) tại các NHTM Việt Nam hiện nay:
Báo cáo đánh giá các nguyên tắc Basel II [28], nguyên tắc 17 – Kiểm tra và kiểm toán nội bộ: Cơ quan nhà nước phải đảm bảo rằng ngân hàng phải có hệ thống kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ phù hợp với quy mô và mức độ phù hợp với loại hình kinh doanh của tổ chức. Nguyên tắc số 17 được nhận định phần lớn các NHTM Việt Nam mới chỉ tuân thủ một phần. Về hành lang pháp lý đảm bảo nguyên tắc 17, NHNN ban hành Thông tư số 44/2011/TT-NHNN về Quy định đối với hệ thống kiểm soát nội bộ (KSNB) và kiểm toán nội bộ của TCTD, chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài có cập nhật một số chuẩn mực theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II. Theo đánh giá, thì các NHTM tuy có hệ thống kiểm soát, KTNB nhưng quy mô và mức độ phù hợp với loại hình kinh doanh chưa được đánh giá, chất lượng hoạt động, chất lượng nhân sự tham gia KTNB, kết quả KTNB được sử dụng hữu ích cho công tác QTRR tại một số ít các NHTM.
Theo Luật các TCTD Việt Nam, các TCTD phải xây dựng hệ thống KSNB để đảm bảo hiệu quả và an toàn trong hoạt động bảo vệ, quản lý, sử dụng hiệu quả tài sản và các nguồn lực ngân hàng. TCTD phải thành lập KTNB thực hiện rà soát, đánh giá độc lập, khách quan đối với hệ thống KSNB, đánh giá tính thích hợp và sự tuân thủ quy định, chính sách nội bộ, thủ tục, quy trình đã được thiết lập trong TCTD. Kết thúc năm tài chính, các NHTM phải lựa chọn một tổ chức kiểm toán độc lập đủ điều kiện để kiểm toán các hoạt động của mình. Thực tế, phần lớn các NHTM Việt Nam đã thành lập bộ phận KTNB trực thuộc Ban kiểm soát (BKS) có chức năng độc lập giám sát, đánh giá sự tuân thủ với các chính sách và quy trình QTRR trong ngân hàng. Theo thông lệ quốc tế, bộ phận KTNB được quyền báo cáo trực tiếp lên HĐQT và BKS mà không cần thông qua các đơn vị khác của ngân hàng. Hoạt động KTNB tại các NHTM Việt Nam mới chỉ tập trung cho rủi ro tín dụng, chưa thực sự phát huy đối với các rủi ro trọng yếu khác (vì các rủi ro là mối quan hệ qua lại chặt chẽ trong công tác QTRR của ngân hàng). Tần suất thực hiện KTNB là định kỳ, hoạt động KTNB hiện vẫn đi sau, chưa phát hiện trước, kịp thời các vấn đề trong công tác QTRR của NHTM. Điển hình như các vụ án kinh tế lớn tại ACB, OCB, GPBank, Ngân hàng xây dựng, Vietinbank [26] đều do hoạt động tín dụng và QTRRTD chưa theo quy trình, nhưng hệ thống KTNB không phát hiện sớm được sai sót dẫn đến xảy ra các thất thoát vốn lớn cho ngân hàng.
Trong 4 nguyên tắc giám sát hoạt động ngân hàng tại trụ cột 2, sổ tay Thanh tra ngân hàng [33] cho thấy, các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn nội bộ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó. Một số NHTM Việt Nam đã có nghiên cứu, đo lường vốn yêu cầu, tuy nhiên mới chỉ thực hiện trong nội bộ ngân hàng, chưa được quy định cụ thể và bắt buộc theo văn bản trên toàn hệ thống các NHTM. .
Theo kết quả đánh giá Nguyên tắc thanh tra giám sát ngân hàng hiệu quả của Basel, cho thấy, phần lớn nhóm 10 NHTM triển khai Basel II, BKS cũng có các báo
cáo về hoạt động của năm và định hướng năm tiếp theo báo cáo trước Đại hội cổ đông. Như vậy, năng lực QTRRTD liên quan đến bộ máy KTNB đã được các ngân hàng chú trọng, coi là thành tố quan trọng, không thể thiếu nhằm nâng cao năng lực QTRRTD theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II.
3.2.7. Năng lực quản trị rủi ro theo danh mục tín dụng (DMTD)
Trước hết, những hoạt động quản trị rủi ro theo danh mục tín dụng mà các NHTM đã làm được trong thời gian (2009 - 2014) bao gồm:
Một là, một số NHTM đã dự kiến các chỉ tiêu và quan tâm xây dựng các chính sách liên quan đến quản trị rủi ro danh mục tính dụng (QTRR DMTD) từ đó có định hướng cho sự hình thành và phát triển QTRR DMTD chủ động.
Trong chính sách cấp tín dụng, xây dựng kế hoạch hoạt động hàng năm, các NHTM đã đưa ra các chính sách định hướng theo quy định của NHNN và phù hợp với điều kiện của từng ngân hàng. Các quy định, chính sách và khẩu vị rủi ro của các ngân hàng là cơ sở để xây dựng danh mục hạn mức tín dụng cho từng loại sản phẩm, ngành nghề, đối tượng khách hàng. Như ngân hàng ACB năm 2009 dự kiến
[19] tổng dư nợ khối lượng khách hàng doanh nghiệp 34,000 tỷ đồng, khách khách hàng cá nhân 31,000 tỷ đồng. Xây dựng và cải thiện công tác QTRR DMTD thông qua nâng cấp hệ thống cảnh báo sớm (EWS) nhằm đảm bảo các vấn đề tín dụng tiềm tàng của khách hàng được nhận diện ở giai đoạn sớm nhất (Kế hoạch hoạt động dự kiến của ngân hàng Techcombank 2014) [24]. NHNN với hai văn bản quan trọng mang tính định hướng cho QTRR tại Việt Nam là quyết định số 493/QĐ- NHNN ban hành ngày 22/4/2005, quyết định số 457/QĐ-NHNN ban hành ngày 19/4/2005 và mới đây thông tư 36 sửa đổi, Thông tư 02, chỉ thị 04 về các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ là những định hướng cho các NHTM xây dựng chính sách QTRR DMTD: chính sách giới hạn cho vay, chính sách phân loại nợ và trích lập dự phòng, chính sách hạn chế cho vay đối với một số đối tượng. Đây là những chính sách chủ động hạn chế rủi ro tập trung trên danh mục, có ý nghĩa quan trọng cho việc định hướng QTRR DMTD tại các NHTM.
Bảng 3.2: Một số chỉ tiêu giới hạn rủi ro tín dụng
Mục tiêu | Giới hạn rủi ro | Ngưỡng cảnh báo nội bộ | |
Tỷ lệ an toàn vốn | Duy trì tỷ lệ CAR tuân thủ theo quy định NHNN theo từng thời kỳ | >= 9% | <=10% |
Đảm bảo tỷ lệ CAR mục tiêu của NH | |||
Tuân thủ theo bảng khẩu vị rủi ro tín dụng của ngân hàng | Duy trì tỷ lệ tổn thất dự kiến (EL) phát sinh từ hoạt động tín dụng không vượt quá quỹ dự phòng | ||
Tuân thủ các giới hạn khẩu vị rủi ro tín dụng | |||
Mức độ tập trung tín dụng và nhóm khách hàng liên quan, kinh doanh chứng khoán | Tuân thủ quy định về mức độ tập trung tín dụng và nhóm khách hàng liên quan của NHNN | Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng | >=10% |
Tuân thủ quy định về giới hạn cho vay, bảo lãnh, chiết khấu giấy tờ có giá của NHNN | Tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh đối với một khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có của ngân hàng | >=20% | |
Tuân thủ các giới hạn nội bộ về rủi ro tập trung của VPB | Tổng dư nợ cho vay đối với một nhóm khách hàng có liên quan không vượt quá 50% vốn tự có của ngân hàng | >=45% | |
Tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 60% vốn tự có | >=55% | ||
Tổng dư nợ cho vay và chiết khấu giấy tờ có giá đối với tất cả khách hàng nhằm đầu tư, kinh doanh chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ | >=15% | ||
Dư nợ vào một ngành bất kỳ không vượt quá 10% tổng dư nợ doanh nghiệp của NH | >=7% | ||
Không cho vay không có đảm bảo để đầu tư kinh doanh chứng khoán, trừ một số trường hợp không áp dụng theo quy định của NHNN | Báo cáo ngay trường hợp vi phạm |
Có thể bạn quan tâm!
- Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Theo Khoản Cấp Tín Dụng (Kctd)
- Bài Học Kinh Nghiệm Tiệm Cận Các Thông Lệ Quốc Tế Và Chuẩn Mực Basel Ii Nhằm Nâng Cao Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Cho Các Ngân Hàng Thương Mại
- Thực Trạng Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Theo Thông Lệ Quốc Tế Và Chuẩn Mực Basel Ii
- Đánh Giá Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Vpbank Hiện Nay So Với Khung Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
- Định Hướng Hoạt Động Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Trong Thời Gian Tới
- Giải Pháp Đối Với Năng Lực Nguồn Nhân Lực (Nlnl)
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
Nguồn: Trích khuôn khổ khẩu vị rủi ro tín dụng của VPBank năm 2012 [40]
Hầu hết các NHTM mới chỉ dừng lại ở giới hạn rủi ro tín dụng theo nhóm khách hàng, chưa xây dựng chi tiết cho từng ngành nghề chủ chốt, lĩnh vực, sản phẩm tín dụng. Tuy nhiên, các quy định giới hạn này cũng phần nào thể hiện chính
sách QTRR DMTD theo hướng chủ động, thực hiện chính sách đa dạng hóa, tránh tập trung dồn vốn cho một doanh nghiệp, ngành nghề, phân tán rủi ro trên danh mục tín dụng của ngân hàng.
Hai là, vận hành hệ thống xếp hạng tín dụng (XHTD) nội bộ tạo tiền đề cho quá trình đánh giá tín dụng nói chung và rủi ro danh mục cho vay nói riêng
Hệ thống XHTD nội bộ là một trong những bộ công cụ đo lường đánh giá rủi ro thích hợp. Theo khuyến nghị của Ủy ban Basel, các ngân hàng có thể sử dụng một trong ba phương pháp: Phương pháp tiêu chuẩn hóa (SA), phương pháp đánh giá nội bộ cơ bản và nâng cao (FIRB/AIRB) sao cho phù hợp với điều kiện của chính các ngân hàng.
Bảng 3.3: Các thang điểm xếp hạng tín dụng khách hàng
Xếp hạng nội bộ | PD (%) | ||
Cấp 1 | cấp 2 | ||
1 | 1 | 1.1 | 0 |
2 | 1.2 | 0.72 | |
3 | 2 | 2.1 | 1.19 |
4 | 2.2 | 1.87 | |
5 | 3 | 3.1 | 2.64 |
6 | 3.2 | 3.59 | |
7 | 4 | 4.1 | 4.66 |
8 | 4.2 | 6.02 | |
9 | 5 | 5.1 | 7.70 |
10 | 5.2 | 9.82 | |
11 | 6 | 6.1 | 12.46 |
12 | 6.2 | 15.62 | |
13 | 7 | 7.1 | 19.35 |
14 | 7.2 | 23.76 | |
15 | 8 | 8.1 | 100% |
Nguồn: Trích Quy trình chấm điểm và XHTD khách hàng SME, VPBank, 2015 [40]
Bảng 3.3 minh họa hệ thống XHTD và chấm điểm khách hàng của một nhóm khách hàng tại một NHTM. Theo hệ thống XHTD của ngân hàng này thì hạng khách hàng được chia thành 15 thứ tự. Việc chia hạng theo từng thang điểm căn cứ vào chính sách tín dụng theo từng thời kỳ, tỷ trọng từng nhóm khách hàng. Hạng cut-off (không cho vay) được xác định căn cứ vào chính sách tín dụng theo từng sản phẩm, chương trình tín dụng, tỷ lệ nợ xấu, chi phí rủi ro kỳ vọng của từng thời kỳ.
Cụ thể về điểm cut-off theo bảng 3.3, đối với chương trình tín dụng/sản phẩm tín dụng/chính sách tín dụng không nêu rõ hạng cut-off thì khách hàng có XHTD đủ điều kiện xem xét cấp tín dụng như sau:
- Khách hàng SME: hạng 1.1 (thứ tự hạng 1) đến hạng 4.2 (thứ tự hạng 8)
- Khách hàng MSME: hạng 1 (thứ tự hạng 1) đến hạng 5.2 (thứ tự hạng 10)
Hạng 4.2 và hạng 5.2 được gọi là hạng tín dụng tối thiểu (điểm cut-off) lần lượt tại từng phân khúc SME/MSME để ngân hàng xem xét cấp tín dụng.
Từ hệ thống XHTD nội bộ của từng khách hàng, cùng với dữ liệu căn bản cho việc xây dựng mô hình đo lường rủi ro danh mục cho vay (xác suất vỡ nợ và tỷ lệ tổn thất không thu hồi). Tuy nhiên, kết quả mới chỉ dừng lại ở mức hỗ trợ việc ra quyết định tín dụng, chưa ứng dụng hết các lợi ích từ hệ thống XHTD trong việc quản trị rủi ro danh mục tín dụng.
Ba là, phần lớn các ngân hàng sử dụng biện pháp nội bảng khi tiến hành điều chỉnh danh mục cấp tín dụng
Khi một ngân hàng muốn điều chỉnh danh mục cấp tín dụng, thường sử dụng phương pháp nội bảng hoặc ngoại bảng. Tại Việt Nam, hầu hết các ngân hàng sử dụng phương pháp nội bảng. Cụ thể, khi muốn điều chỉnh giảm tỷ trọng dư nợ một loại hình vay nào đó, các NHTM sẽ giảm dư nợ thông qua việc thu hồi nợ, tăng dư nợ các loại hình cấp tín dụng khác, sử dụng biện pháp bị cấm “đảo nợ” để thay đổi mục đích khoản vay, chuyển đổi loại hình dư nợ. Ngoài các biện pháp trên hiện nay phương pháp điều chỉnh được sử dụng đến là mua bán nợ, việc ra đời công ty quản lý tài sản VAMC cũng hỗ trợ các NHTM trong việc điều chỉnh lại danh mục tín dụng. Hiện nay, khung pháp lý cho thị trường mua bán nợ, thị trường mua bán nợ xấu đang tiếp tục được hoàn thiện để giúp các NHTM nâng cao năng lực QTRR DMTD.
Tóm lại, đánh giá thực trạng năng lực quản trị rủi ro danh mục tín dụng (QTRR DMTD) tại các NHTM Việt Nam trong thời gian qua có một số điểm chính như sau:
Thứ nhất, hầu hết các NHTM chưa thực hiện QTRR DMTD. Các ngân hàng mới chỉ quan tâm đến QTRR từng khoản tín dụng, chưa áp dụng QTRR DMTD. Một số NHTM lớn, trong kế hoạch hàng năm có đưa ra các định hướng chung/định hướng ưu tiên trong việc thực hiện cấp tín dụng theo phương pháp quản trị danh mục thụ động. Còn lại hầu hết các NHTM CP nhỏ không thiết lập được danh mục tín dụng. Các ngân hàng ngoài những biểu hiện tập trung rủi ro theo ngành kinh tế, lĩnh vực đầu tư,
một số ngân hàng cũng vi phạm những quy định của NHNN tránh tập trung dồn vốn cho một đối tượng khách hàng.
Thứ hai, năng lực ứng dụng mô hình XHTD nội bộ của các ngân hàng đo lường rủi ro từng khoản tín dụng chưa đánh giá tốt rủi ro cho nên khó xây dựng mô hình đo lường chính xác mức độ rủi ro danh mục tín dụng để áp dụng biện pháp quản trị phù hợp. Cách thức lượng hóa rủi ro tín dụng hiện tại có nhiều thiếu sót như: (i) Chưa tách biệt được bản chất tổn thất dự kiến và tổn thất không dự kiến để xác định nguồn bù đắp tương thích; (ii) Cách tính toán trích lập dự phòng rủi ro chưa hợp lý, con số tỷ lệ trích lập dự phòng chung (các khoản tín dụng thuộc nhóm nợ từ 1 đến 4) là 0.75% không có cơ sở đưa ra con số này; và (iv) Chưa có sự tính toán mối tương quan giữa từng khoản tín dụng trên phạm vị toàn danh mục.
Thứ ba, việc điều chỉnh danh mục tín dụng ít được chú ý, chỉ sử dụng phương pháp nội bảng (thay đổi danh mục tín dụng bằng thu hồi, mua bán nợ) nên tính linh hoạt không cao. Nếu đối chiếu so sánh theo quy định hiện hành thì phương pháp xác định rủi ro danh mục tín dụng của các NHTM Việt Nam hiện nay có sự khác biệt khá xa so với phương pháp xác định rủi ro danh mục tín dụng theo Basel II.
3.2.8. Năng lực quản trị rủi ro theo khoản cấp tín dụng (KCTD)
Theo khung năng lực QTRRTD theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II tác giả đề xuất trong chương 2, thì năng lực QTRR theo khoản cấp tín dụng là:(i) Tuân thủ nghiêm ngặt chính sách và quy trình thẩm định, xác định, đo lường, quản lý và kiểm soát rủi ro; (ii) Lựa chọn và thẩm định khách hàng theo đúng tiêu chí đánh giá, hạn chế tối đa các tiêu chí mang yếu tố định tính, tăng các tiêu chí định lượng và
(iii) Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát một cách hiệu quả, liên tục nhằm phát hiện sớm các sai sót, dấu hiệu cảnh báo rủi ro sớm, rủi ro mang yếu tố chủ quan.
Thứ nhất, quy trình quản trị rủi ro tín dụng (hình 2.2. Khung quản trị rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế) theo 4 bước. Khảo sát mô hình QTRRTD thực tế tại các NHTM mới chỉ thực hiện được bước đầu tiên (nhận biết rủi ro tín dụng) còn 3 bước còn lại chưa thực sự triển khai được do khâu đo lường, định lượng rủi ro tín dụng là điểm yếu nhất của hệ thống các NHTM Việt Nam. Nếu rủi ro tín dụng không thể đo lường, định lượng rủi ro đối với từng khoản tín dụng, từng khách hàng từ đó công tác quản lý, kiểm soát rủi ro tín dụng chưa đạt hiệu quả cao.