động, rủi ro lãi suất). Khẩu vị rủi ro xây dựng trên cơ sở kỳ vọng của các đối tượng liên quan (cổ đông, HĐQT, BĐH, khách hàng, nhân viên, Cơ quan quản lý Nhà nước) để cân đối và hài hòa lợi ích. Khẩu vị rủi ro phải xác định được mức độ chấp nhận, khả năng chịu đựng rủi ro theo quy mô, năng lực của từng ngân hàng. Khẩu vị rủi ro phải cụ thể hóa, chi tiết đến từng ngành, lĩnh vực, sản phẩm, đối tượng khách hàng, bám sát với các chiến lược kinh doanh, quyết định kinh doanh đảm bảo sự cân đối giữa vốn, lợi nhuận, rủi ro và phải bám sát các thông lệ quốc tế như chuẩn mực Basel II nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế của ngành tài chính ngân hàng.
Hoàn thiện văn hóa quản trị rủi ro trong ngân hàng
Thứ nhất, thay đổi nhận thức, tư duy về quản trị rủi ro, quản trị rủi ro tín dụng
Quản trị rủi ro cần có sự kết hợp của văn hóa tổ chức tạo nên một hệ thống đồng nhất, gắn kết. Năng lực quản trị điều hành của ngân hàng sẽ được đánh giá là hiệu quả khi thiết lập được văn hóa QTRR. Để xây dựng được văn hóa QTRR nói chung, QTRRTD nói riêng, các NHTM cần có:
(i) Đội ngũ lãnh đạo ngân hàng hỗ trợ công tác QTRR một cách tối đa, thông qua việc HĐQT tham gia vào bộ máy QTRR, thực hiện việc trao quyền và quản lý các quan hệ báo cáo trong QTRR;
(ii) Trách nhiệm QTRR gắn liền với cả các quản trị viên cao cấp;
(iii) Lãnh đạo ngân hàng thường xuyên tiếp nhận, thảo luận và hiểu các báo cáo về vị thế rủi ro và chương trình quản lý rủi ro;
(iv) Đội ngũ nhân viên trong bộ máy QTRR có trình độ cao và phù hợp;
(v) Mục tiêu của QTRRTD phù hợp với mục tiêu kinh doanh tín dụng;
(vi) Các chính sách và quy trình QTRRTD được thiết lập rõ ràng và phổ biến toàn hàng, xem xét trong mối quan hệ với các rủi ro khác;
Có thể bạn quan tâm!
- Những Điểm Mạnh Của Nhtm Trong Quá Trình Triển Khai Basel Ii
- Đánh Giá Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Vpbank Hiện Nay So Với Khung Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
- Định Hướng Hoạt Động Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Trong Thời Gian Tới
- Giải Pháp Đối Với Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Theo Danh Mục Tín Dụng (Dmtd)
- A: So Sánh Sự Khác Biệt Của Basel I Và Basel Ii Trong Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
- Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế tại ngân hàng thương mại Việt Nam - 15
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
(vii) Các thông tin QTRRTD được trao đổi rộng rãi, có tính minh bạch cao;
(viii) Các nhà quản trị coi năng lực QTRR là vấn đề cốt lõi, chủ động tiếp cận, học hỏi các bài học kinh nghiệm và các tình huống tổn thất;
(ix) Bộ phận đo lường và kiểm soát rủi ro tín dụng tồn tại độc lập với bộ phận chấp nhận và quản lý rủi ro tín dụng.
Ngoài ra, để phát triển văn hóa QTRR lành mạnh và tích cực trong quản trị ngân hàng hiện đại, Basel II khuyến nghị các ngân hàng cần nhận thức đúng đắn và toàn diện về các mô hình định lượng. Các nhà quản trị ngân hàng hiểu bản chất, điểm mạnh, điểm yếu và mức độ ảnh hưởng của các mô hình định lượng để có quyết định quản lý rủi ro phù hợp với chiến lược của từng ngân hàng theo từng thời
điểm. Văn hóa QTRR lành mạnh cần xác lập theo xu hướng kết hợp chặt chẽ của quản lý định tính và định lượng theo thông lệ quốc tế và quy định NHNN.
QTRRTD là độc lập nhưng không tách rời với hoạt động tín dụng, QTRRTD không chỉ là số liệu quá khứ, rủi ro, tổn thất đã xảy ra mà phải là một trong hoạt động tạo ra doanh thu bằng cách tích hợp vào các hoạt động sinh lợi, sẵn sàng với các tác động, biến cố và các cú sốc lớn của thị trường.
QTRRTD là thay đổi từ tư duy QTRR của từng ngân hàng riêng lẻ sang tư duy hệ thống các ngân hàng, nâng cao năng lực QTRRTD từng ngân hàng trong mối quan hệ tổng thể hệ thống các NHTM Việt Nam đáp ứng yêu cầu Hội nhập.
QTRRTD là văn hóa hợp tác phát triển, thống nhất trong việc xử lý các vấn đề tồn tại của hệ thống ngân hàng hiện nay, đó là xử lý nợ xấu từ quá khứ, cùng với thiết lập, xây dựng các hệ thống, khung QTRR, QTRRTD và các công cụ đo lường định lượng theo các thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II nâng cao khả năng chịu đựng, đối phó rủi ro tín dụng cho các NHTM Việt Nam.
Thứ hai, văn hóa rủi ro coi trọng nguyên tắc, quy trình, chính sách ban hành
Văn hóa rủi ro là thành phần trọng tâm, cốt lõi trong khung đánh giá năng lực QTRRTD theo các thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II. Muốn xây dựng được văn hóa rủi ro thì mỗi cá nhân, phòng ban, chi nhánh, hội sở đểu là nhân tố phát hiện, đánh giá, đề phòng và giảm thiểu rủi ro thông qua ý thức, trách nhiệm, hoạt động giám sát thường xuyên có tính hệ thống, các chi nhánh, phòng ban và từng cá nhân trong chuỗi quy trình luôn tự rà soát, nhận diện rủi ro phát sinh và coi là công việc thực hiện hàng ngày. Thực hiện các biện pháp triển khai, phòng ngừa giảm thiểu rủi ro, chỉnh sửa, hoàn thiện chính sách, quy trình nghiệp vụ, sắp xếp luân chuyển và đào tạo cán bộ xây dựng văn hóa rủi ro riêng cho từng ngân hàng, từ đó tạo văn hóa rủi ro chung cho cả hệ thống ngân hàng.
Để đáp ứng các yêu cầu khi triển khai Basel II, các nhà QTRR cần phải cập nhật các phương pháp, công cụ đo lường và quản lý rủi ro mới theo văn hóa mới – văn hóa giám sát, kiểm tra tính tuân thủ các nguyên tắc, quy trình, chính sách được quy định trong Khung QTRR và khẩu vị rủi ro. Muốn vậy, các NHTM phải tăng cường năng lực cho bộ phận kiểm soát, KTNB phối hợp với các Cơ quan giám sát của NHNN.
Hoàn thiện hệ thống văn bản quy định
Ngân hàng cần hoàn thiện các chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng, QTRRTD như chính sách quy trình tín dụng, chính sách QTRR, chính sách quản lý
danh mục tín dụng, chính sách phân loại rủi ro, chính sách trích lập dự phòng rủi ro. Các chính sách này phải có sự nhất quán, phù hợp khẩu vị rủi ro và với các nội dung nội bộ khác nhằm hướng tới mục tiêu chung của các ngân hàng.
Các văn bản quy định về phòng ngừa rủi ro, đảm bảo an toàn trong hoạt động cấp tín dụng đã được ban hành và áp dụng trong thời gian khá dài nên việc xem xét, sửa đổi, bổ sung những điểm bất cập nhằm tạo điều kiện, công cụ, cơ sở pháp lý thuận tiện cho các ngân hàng trong việc phân loại, quản lý nợ và kiểm soát rủi ro trong hoạt động tín dụng. Về cơ bản, pháp luật cần đưa ra những quy định cụ thể nhằm nâng cao năng lực QTRRTD của các NHTM dựa trên việc yêu cầu xây dựng hệ thống lưu trữ, cập nhật và báo cáo thông tin.
Theo khuyến nghị của Basel II thì ngân hàng phải thực hiện chính sách xếp hạng rủi ro, phân loại tài sản ngay từ khi phát sinh khoản vay, các đánh giá sơ bộ được tiến hành và sàng lọc ngay các khoản vay theo một số tiêu chí loại bỏ, nếu được chấp nhận hệ thống XHTD nội bộ sẽ chấm điểm, tính toán các thông số về PD, LGD, EAD, mối tương quan, và căn cứ vào đó đánh giá rủi ro thông qua mức giá (lãi suất) áp dụng cho khoản tín dụng. Các quyết định về trích lập dự phòng, phân bổ vốn được đưa ra dựa trên kết quả từ hệ thống XHTD nội bộ. Như vậy, xây dựng hệ thống XHTD nội bộ, chính sách dự phòng rủi ro, xác định giới hạn tín dụng đối với khách hàng, ban hành sổ tay tín dụng, chiến lược tăng trưởng (theo đối tượng khách hàng, khu vực, ngành), quản trị lãi suất, quản trị thanh khoản nhằm đảm bảo tính hiệu quả và phát triển bền vững trong hoạt động tín dụng.
Tái cấu trúc bộ máy quản trị rủi ro tín dụng
Năng lực quản trị điều hành là khả năng xây dựng chính sách/chiến lược, tất cả nội dung ban hành, các thay đổi trong chiến lược quản trị rủi ro đều phải bắt đầu từ đội ngũ lãnh đạo cao cấp trong ngân hàng. Bộ máy QTRR là tập hợp các mối quan hệ trong cơ cấu tổ chức giữa Hội đồng quản trị (HĐQT), Ban Kiểm soát, BĐH, các cổ đông và những người có lợi ích liên quan, với trách nhiệm cao nhất và cuối cùng về QTRR thuộc về HĐQT. Một cơ chế tổ chức QTRR hiệu quả phải xác định rõ vai trò và trách nhiệm của từng cá nhân tham gia vào hoạt động tạo rủi ro, quản trị rủi ro. Thực trạng phân tích mô hình QTRRTD hiện tại của các NHTM Việt Nam cho thấy sự chồng chéo chức năng nhiệm vụ giữa HĐQT và BĐH, mô hình Quản lý rủi ro vừa tập trung vừa phân tán, công tác phê duyệt tín dụng tập trung hầu hết tại Hội sở chính nhưng
thiếu các công cụ hỗ trợ xét duyệt, nợ xấu, quản lý tài sản đảm bảo được công ty độc lập của ngân hàng là AMC quản lý, và cơ chế giảm sát kiểm soát rủi ro còn nhiều hạn chế.
Như vậy, muốn nâng cao năng lực quản trị điều hành, các NHTM Việt Nam cần phải tái cấu trúc hệ thống cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý rủi ro hiện nay:
Thứ nhất, xây dựng cơ cấu tổ chức quản trị rủi ro
Hiện nay, xu hướng của các ngân hàng tiên tiến là thành lập Ủy ban Quản lý rủi ro trực thuộc HĐQT, Hội đồng quản lý Tài sản Nợ - Có (ALCO) trực thuộc Ban điều hành; Các NHTM tiên tiến áp dụng mô hình QTRR tập trung, có sự tách biệt độc lập giữa 3 chức năng: kinh doanh, quản lý rủi ro và kiểm soát rủi ro. Theo đó, NHTM Việt Nam nên thống nhất tuân theo cơ cấu tổ chức tách bạch hoàn toàn 3 chức năng này, trong đó bộ phận QTRR độc lập phải được tham gia vào tất cả các quyết định chiến lược ngân hàng.
Do đặc điểm của 3 lớp phòng vệ: HĐQT giám sát rủi ro một cách tách biệt với BĐH, thông qua bộ máy Kiểm toán nội bộ rà soát độc lập. Thực tế tại các NHTM công việc rà soát kiểm soát rủi ro này còn có sự chồng chéo về cả nội dung và thời gian kiểm tra, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh mà lại thiếu hiệu quả. Với thực trạng trên, căn cứ chiến lược, chính sách tín dụng, các thông tư về QTRRTD các NHTM cần: (i) Xây dựng tiêu chí kiểm soát rủi ro tín dụng chi tiết cụ thể cho từng lớp phòng vệ để các lớp này hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, theo quy trình bổ trợ, kiểm soát có hiệu quả; (ii) Theo mô hình 3 lớp phòng vệ thì lớp 2 và lớp 3 đều có chức năng xây dựng phương pháp, giám sát rủi ro từ chi tiết đến tổng thể. Trong quy đinh chi tiết cho từng lớp phòng vệ, phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, đối tượng kiểm soát của từng lớp, tần suất (ngày, tháng, năm), theo hạn mức của khoản tín dụng. Tất cả những quy định này cần được xây dựng chi tiết rõ ràng; (iii) Xây dựng được các tiêu chí định lượng, cơ sở dữ liệu hệ thống đầy đủ hỗ trợ cho công tác kiểm tra kiểm soát; (iv) Thay đổi tư duy của các bộ phận tham gia trong mô hình, “tư duy rủi ro”, mục tiêu chung xác định là lành mạnh, hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng, chứ không phải báo cáo thành tích (QTRR lớp 2 báo cáo cho BĐH, QTRR lớp 3 thuộc BKS, báo cáo trực tiếp lên HĐQT).
Thứ hai, tổ chức hoạt động cần đảm bảo tính độc lập và tập trung bộ phận quản trị rủi ro trong mỗi ngân hàng
(i) Quy định về số lượng thành viên HĐQT tối đa, trách nhiệm, nhiệm vụ cụ thể của HĐQT, cách thức tổ chức điều hành và ra quyết định. Pháp luật cần bổ sung thêm trách nhiệm cá nhân của từng thành viên HĐQT trước pháp luật (rút kinh nghiệm từ các vụ án kinh tế ngân hàng liên quan đến hàng loạt các nhân sự cao cấp, nguyên là các chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc, thành viên HĐQT, thành viên BĐH), quy định cụ thể về các tiêu chuẩn đối với các thành viên HĐQT độc lập về kinh nghiệm, không để kiêm nhiệm thực hiện quản lý, giới hạn cụ thể thẩm quyền của chủ tịch HĐQT trong phạm vi chỉ đạo, giám sát hoạt động của TGĐ và BĐH. Không tham gia vào điều hành các công việc ngân hàng có tính hàng ngày nhằm hạn chế ảnh hưởng của khẩu vị rủi ro một cá nhân lên khẩu vị rủi ro của cả ngân hàng. Tương tự, cũng cần nêu rõ vai trò, thẩm quyền của Ủy ban quản lý rủi ro và Ban kiểm soát nội bộ của ngân hàng nhằm phát huy vai trò và nâng cao thẩm quyền của các bộ phận này trong hoạt động QTRRTD.
(ii) Phân tách trách nhiệm giữa các bộ phận, theo mô hình trước đây tại các NHTM thì hoạt động QTRRTD phần lớn do bộ phận kinh doanh thực hiện trực tiếp như các chi nhánh, giám đốc chi nhánh hoặc các hội đồng tín dụng tại các chi nhánh được giao mức phê duyệt cụ thể. Một vài phòng ban Hội sở cũng có chức năng kinh doanh nhưng tập trung vào những khoản tín dụng lớn và dài hạn. Mô hình quản trị điều hành trong khung năng lực QTRRTD theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II yêu cầu:
Một là, phân tách chức năng bán hàng, chức năng thẩm định, quản lý rủi ro tín dụng và các chức năng quản lý nợ trong hoạt động cấp tín dụng cho các doanh nghiệp. Theo đó, toàn bộ việc xây dựng giới hạn tín dụng trên cơ sở xác định rủi ro tổng thể (thông qua thực hiện XHTD, phân tích ngành, khả năng phát triển của khách hàng trong tương lai) do bộ phận quản lý rủi ro tín dụng thực hiện độc lập, đảm bảo tính khách quan cũng như hạn chế sự phân tán thông tin khi cung cấp các sản phẩm tín dụng. Đối với đánh giá rủi ro giao dịch (xem xét từng lần vay cụ thể), tùy theo mức độ phức tạp, giới hạn tín dụng được xác định, có thể giao cho bộ phận quan hệ khác hàng trực tiếp thực hiện thẩm định, hoặc giao cho bộ phận phân tích tín dụng. Cách thức này sẽ đáp ứng nhu cầu khách hàng nhanh chóng và phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam. Bộ phận quản lý rủi ro tín dụng thực hiện việc giám sát song song quá trình bộ phận quan hệ khách hàng thực hiện các quyết định phê duyệt tín dụng để phát hiện các dấu hiệu rủi ro cũng như can thiệp kịp thời các rủi ro có thể xảy ra. Như vậy quá trình đánh giá rủi ro được tiến hành một cách tổng thể, liên tục trước, trong và sau cấp tín dụng, nâng cao hiệu quả năng lực QTRRTD theo từng khoản cấp tín dụng;
Hai là, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm pháp lý của bộ phận quan hệ khách hàng, quản lý rủi ro tín dụng và quản lý nợ. Sự phân tách rõ ràng trách nhiệm sẽ đảm bảo tính công bằng trong đánh giá chất lượng công việc, đảm bảo phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận tác nghiệp khi thực thi các mục tiêu QTRRTD đề ra, phù hợp với đặc thù cũng như chính sách tín dụng của ngân hàng;
Ba là, tiêu chuẩn hóa cán bộ theo dõi rủi ro tín dụng để đáp ứng các yêu cầu của Basel II. Theo đó, cần xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý rủi ro có kinh nghiệm, có kiến thức và khả năng nhanh nhạy khi xem xét, đánh giá các đề xuất tín dụng. Ngân hàng xây dựng một hệ tiêu chuẩn đối với cán bộ RRTD như trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế trải qua các bộ phận quan hệ khách hàng.
4.3.4. Giải pháp đối với năng lực nguồn nhân lực (NLNL)
Năng lực nguồn nhân lực trong hoạt động tín dụng bao gồm: Khả năng tiếp cận, hiểu biết về các thông lệ quốc tế trong QTRRTD; Khả năng xây dựng các chính sách, quy trình tín dụng theo thông lệ quốc tế phù hợp với điều kiện của ngân hàng; Tính tuân thủ các quy trình nghiệp vụ tín dụng, quy trình QTRRTD; Khả năng phân tích, QTRR theo từng khoản tín dụng và theo danh mục tín dụng của hệ thống; Văn hóa rủi ro nền tảng cho hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Thứ nhất, nâng cao khả năng tiếp cận, hiểu biết về các thông lệ trong QTRRTD, khả năng xây dựng các chính sách, quy trình tín dụng theo thông lệ quốc tế phù hợp với điều kiện của ngân hàng.
Để thực hiện được các năng lực này, các NHTM cần xây dựng đội ngũ cán bộ, chuyên viên có trình độ chuyên môn về ngân hàng cao, khả năng tiếp cận các mô hình kinh tế lượng theo thông lệ quốc tế. Nguồn nhân lực trong hoạt động QTRRTD từ Hội đồng quản trị (HĐQT) và Ban lãnh đạo cấp cao của các ngân hàng đến người thực hiện trực tiếp công tác QTRRTD. Bộ máy tổ chức quản lý rủi ro phải được tổ chức trên nguyên tắc tách biệt giữa người tạo ra rủi ro và những người phê duyệt, giám sát rủi ro đó.
HĐQT: có trách nhiệm nắm được rủi ro của ngân hàng, đảm bảo những rủi ro này được quản trị một cách phù hợp. Thành viên trong HĐQT phải là những người có kinh nghiệm về hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng, kiến thức quản trị, kiến thức kinh tế, kiến thức các thông lệ quốc tế đang được ứng dụng vào QTRRTD. Việc cập nhật này có thể qua các hội thảo, diễn đàn, tọa đàm kinh tế do NHNN xây dựng chương trình, phối hợp với các chuyên gia nước ngoài.
Ủy ban quản lý rủi ro, theo phân quyền của HĐQT, là quản trị các rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt, có trách nhiệm: Chuẩn bị các chính sách rủi ro, Duy trì chất lượng danh mục cho vay; Phân bổ nguồn lực tài sản và nguồn vốn; Chấp nhận các kế hoạch về hoạt động tín dụng; Đưa ra các hạn mức rủi ro. Các thành viên thuộc Ủy ban rủi ro bao gồm các cán bộ lâu năm của ngân hàng, không chỉ có kiến thức nền tảng về kinh tế, tài chính, ngân hàng, quản trị rủi ro, mà cần có các chuyên gia cao cấp xây dựng chính sách, có kinh nghiệm am hiểu sâu sắc về hoạt động tín dụng trong tổng thể mối quan hệ các rủi ro, hiểu rõ cách thức xây dựng các danh mục tín dụng, các hạn mức rủi ro và cách thức áp dụng cụ thể theo thông lệ quốc tế.
Đối với quản lý cấp trung (từ các thành viên BĐH, phụ trách QTRR, quản lý kinh doanh) thực hiện các mục tiêu đặt ra của HĐQT, thường là các cán bộ quản lý có kinh nghiệm thực tế nhiều năm trong lĩnh vực ngân hàng, có ưu điểm độ nhạy cảm với các loại rủi ro tốt, nhưng lại trở thành nhược điểm trong việc tiếp cận cái mới theo các yêu cầu trong Basel II. Thay đổi quan điểm của nhóm quản lý cấp trung từ đánh giá rủi ro định tính sang cách tiếp cận rủi ro theo các phương pháp đo lường, sử dụng hoàn toàn kết quả xếp hạng từ hệ thống để ra quyết định cấp tín dụng là tương đối khó khăn, nhất là biến động thị trường tài chính đang chỉ ra nghi ngờ đối với các công cụ QTRRTD, và nhân tố thông tin bất đối xứng tại Việt Nam đang là trở ngại tác động tiêu cực đến khả năng QTRRTD của ngân hàng. Thay đổi nhận thức của nhóm này cần mang tính quyết liệt, là yêu cầu bắt buộc phải tuân theo, điều chỉnh qua các khóa học nâng cao nghiệp vụ của NHNN, khóa đào tạo, hội thảo nâng cao do chính NHTM tổ chức. Thuê nhân sự cao cấp, chuyên gia nước ngoài ở vị trí như TGĐ, Giám đốc khối QTRR, có kiến thức và kinh nghiệm về QTRR theo Basel II là một giải pháp hiệu quả các NHTM đang áp dụng. Ngoài ra, bài học kinh nghiệm từ nền tài chính ngân hàng tiên tiến, bằng các cổ đông chiến lược là các ngân hàng có hoạt động kinh doanh quốc tế, năng lực QTRRTD tốt để kế thừa và phát huy nền tảng QTRRTD của các ngân hàng tiên tiến.
Cuối cùng, nhóm nguồn nhân lực làm việc trực tiếp trong hoạt động QTRR, QTRRTD. Nhân sự để đáp ứng các yêu cầu trong việc triển khai Basel II tại Việt Nam luôn rất thiếu, khái niệm thiếu là thiếu người có kinh nghiệm phân tích, xây dựng các mô hình. Tuy nhiên, nếu yếu tố quản trị nguồn nhân lực từ cấp cao, cấp trung cải thiện, các nhân sự QTRR cao cấp được thuê về có kinh nghiệm, thì vấn đề nhân sự trực tiếp không cần đòi hỏi cao, nhóm nhân sự được đào tạo giỏi về các mô hình toán học, xác suất thống kê kinh tế, nắm được cơ bản quy trình nghiệp vụ ngân hàng. Khi tiếp cận một phương pháp, cách thức quản trị mới, một người mới sẽ nhanh và dễ thích nghi
hơn đối với việc thay đổi tư duy cho nhóm nhân sự có thực hiện theo kinh nghiệm trước đây. Đây là một cơ hội xây dựng một đội ngũ nhân lực trẻ, bài bản cho các NHTM Việt Nam khi chính thức triển khai Basel II toàn hệ thống.
Bên cạnh việc chuyển đổi dần chiến lược nhân sự từ “buy” sang “build” các NHTM cần đào tạo kỹ năng không ngừng cho các bộ phận (kinh doanh và quản trị rủi ro) nhằm xây dựng đội ngũ nhân sự chuyên môn cao.
Các kỹ năng cần đào tạo: Theo từng cấp độ quản lý, từng nhóm công việc được giao mà bộ máy quản lý nói chung phải được đào tạo các kỹ năng (Required skills) và kiến thức (Knowledges) liên quan đến quản lý ngân hàng. Kỹ năng tính toán mô hình, ứng dụng công thức theo Basel II, khả năng xây dựng, chạy mô hình tín dụng toán học SPSS, SAS.
Các kỹ năng cần thiết: Kỹ năng phân tích toán thống kê, tài chính, dự án đầu tư, sản xuất kinh doanh; Kỹ năng quản lý thời gian và tiến độ; Kỹ năng thương lượng và đàm phán; Kỹ năng quản lý nguồn lực.
Các bước cần thiết phải đào tạo: Kiến thức chung về các quy định của pháp luật trong lĩnh vực tài chính tiền tệ; Kiến thức về QTRRTD theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II; Quy định về nghiệp vụ ngân hàng như tín dụng, huy động vốn; Quy định về đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử.
Các lớp bồi dưỡng mở theo từng chuyên đề phù hợp với từng đối tượng. Giảng viên phải là những người vừa có trình độ vừa có thực tiễn. Thủ trưởng các đơn vị bắt buộc phải học qua các lớp quản lý chung trước khi được bổ nhiệm.
Thứ hai, năng lực nhân sự đánh giá tính tuân thủ các quy trình nghiệp vụ tín dụng, quy trình QTRRTD
Các NHTM cần hướng tới quản trị rủi ro nguồn nhân lực theo phương thức tiên tiến, xây dựng khung năng lực cho từng vị trí cán bộ với tiêu chí cụ thể, rõ ràng để tuyển dụng và đánh giá năng lực. Xây dựng bộ mục tiêu đánh giá cho từng cán bộ (từ cấp quản lý đến cán bộ nhân viên phi quản lý) với các tiêu chí có thể là định tính nhưng phải được gắn trọng số để định lượng, ví dụ sau đây là mẫu biểu xây dựng mục tiêu cho cán bộ nhân viên phi quản lý. Nội dung các tiêu chí đánh giá: Các mục tiêu cần đưa vào để đánh giá tính tuân thủ các quy trình nghiệp vụ tín dụng, quy trình QTRRTD như: trình độ chuyên môn (nghiệp vụ và các công cụ đo lường), mức độ tuân thủ các chính sách và quy trình QTRRTD được thể hiện dưới dạng văn bản, thời gian hoàn thành công việc có chất lượng, khả năng truyền thông các thông tin trong QTRRTD; mức độ tuân thủ văn hóa rủi ro; khả năng đáp ứng yêu cầu công việc. Mục tiêu càng chi tiết, thì kết quả đánh giá càng chính xác. Mục
tiêu của các NHTM khác nhau là không giống nhau, trọng số cho từng mục tiêu cũng khác nhau, và phải xây dựng cho từng nhóm cán bộ riêng, không sử dụng chung bộ mục tiêu cho tất cả. [Phụ lục 4.1: Bảng đánh giá chất lượng công việc cho nhân viên].
Thứ ba, nâng cao khả năng phân tích, QTRR theo từng khoản mục tín dụng và theo danh mục tín dụng của hệ thống
Phân tích, QTRRTD theo từng khoản tín dụng và theo danh mục tín dụng là yêu cầu nhân sự có khả năng xây dựng và vận hành hệ thống XHTD nội bộ, lượng hóa rủi ro tín dụng sử dụng đánh giá mức độ tương quan, đa cộng tuyến, xác xuất thống kê, các mô hình định giá Monte Carlos (Chỉ áp dụng kiểm tra với nhiều biến rủi ro cho danh mục rủi ro tín dụng), Credit metrics, các công cụ đánh giá độ chính xác mô hình (AR, Gini).
Ngoài ra để có khả năng phân tích, QTRR DMTD yêu cầu kiến thức nghiệp vụ, trình độ hiểu biết thị trường, mức độ am hiểu cơ sở dữ liệu về tín dụng và cách thức quản trị danh mục chủ động theo thông lệ quốc tế. Tất cả những khả năng này nguồn nhân lực thực hiện của NHTM đều thiếu.
Thứ tư, xây dựng và tuân thủ văn hóa rủi ro của từng ngân hàng.
Sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu kinh doanh, khai thác triệt để mọi khả năng, tiềm năng của lao động, phát huy truyền thống văn hóa doanh nghiệp, tinh thần gắn bó lâu dài với doanh nghiệp, quản lý nguồn nhân lực theo thông lệ quốc tế hiện đại phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Thực hiện chính sách đãi ngộ và thu hút nhân tài, bố trí nhân lực phù hợp, khoa học, chuyên môn hóa. Ngoài ra, các chế độ lương, thưởng cần gắn với trách nhiệm và hiệu quả công việc. Kiên quyết xử lý tình trạng cán bộ ngân hàng lợi dụng quyền hạn để mưu cầu toan tính cá nhân, gây thiệt hại và ảnh hưởng uy tín của ngân hàng
4.3.5. Giải pháp đối với năng lực cơ sở hạ tầng tin học (HTTH)
Các phương pháp quản trị rủi ro hiện đại đều yêu cầu sử dụng các mô hình định lượng phức tạp, cơ sở dữ liệu lớn, có độ chính xác cao, có khả năng phân tích rủi ro theo thời gian thực. Đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở hệ thống thông tin khác hàng và cơ sở dữ liệu đồng bộ là góp phần tăng cường năng lực quản trị nội bộ, quản trị rủi ro cho ngân hàng.
Phát triển hạ tầng công nghệ thông tin
Mặc dù các NHTM đã tích cực đầu tư các dự án công nghệ thông tin (CNTT), tuy nhiên lại chưa thực sự có những đầu tư thích đáng vào các hệ thống hỗ
trợ quản lý rủi ro bao gồm cả rủi ro tín dụng như Hệ thống khởi tạo khoản vay (LOS), Hệ thống quản lý TSĐB, Hệ thống quản lý thu hồi nợ, Hệ thống cảnh báo sớm, Hệ thống đo lường rủi ro tín dụng, Hệ thống thông tin quản trị MIS. Nguyên nhân do chi phí đầu tư vào các dự án công nghệ thông tin thường rất lớn là rào cản cho các NHTM, ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực QTRR nói chung, QTRRTD nói riêng. Vì công nghệ thông tin là phần cứng trong khung năng lực QTRR của các ngân hàng, nên các NHTM Việt Nam cần có chiến lược, kế hoạch cụ thể, dài hạn tăng cường đầu tư xây dựng các hệ thống công nghệ mạnh, có thể thông qua việc tự phát triển phần mềm, hoặc nhập khẩu các chương trình nước ngoài để áp dụng. Trong quá trình đầu tư, các NHTM cần có kế hoạch triển khai cụ thể :
(i) Đầu tư theo chiều sâu vào các trang thiết bị như: hệ thống mạng nội bộ, các phần mềm tin học, đặc biệt những phần mềm xử lý hỗ trợ cho công tác thẩm định, thẩm định dự án. Cập nhật những công nghệ ngân hàng mới hiện đại trên thế giới đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập;
(ii) Ngân hàng phải chú trọng sự đầu tư trang thiết bị và công nghệ phải được thực hiện từng bước, không nên đầu tư một cách dàn trải.
Đầu tư CNTT nhằm phục vụ cho việc phân tích, đánh giá, đo lường rủi ro trong đó có rủi ro tín dụng cũng cần được ưu tiên. Cần thiết phải hoàn thiện hệ thống thông tin, thống kê, báo cáo nội bộ để xây dựng hệ thống thông tin quản lý, cơ sở dữ liệu hiện đại, tập trung và thống nhất. Tiếp tục nâng cấp mạng, hạ tầng CNTT với giải pháp kỹ thuật, phương thức truyền thông phù hợp với trình độ phát triển của hệ thống NHTM Việt Nam và hệ thống các thông lệ quốc tế. Hoàn thiện và phát triển các phương pháp quản lý các nghiệp vụ ngân hàng cơ bản, các quy trình, thủ tục quản lý, tác nghiệp theo chuẩn mực Basel II, đồng thời theo hướng hiện đại, tự động hóa và được tích hợp trong hệ thống quản trị ngân hàng. Ngoài ra, tăng cường hệ thống an toàn, bảo mật thông tin, dữ liệu và an ninh mạng, liên kết với hệ thống mạng thông tin của NHNN, thông tin hệ thống mạng quốc gia, tạo thế chủ động cho các ngân hàng. Song song với việc đầu tư công nghệ đòi hỏi ngân hàng phải thường xuyên tập huấn cho các cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định để có khả năng sử dụng các công nghệ của ngân hàng.
Xây dựng trung tâm dữ liệu
Hệ thống cơ sở dữ liệu (CSDL) cho rủi ro tín dụng đáp ứng các quy định trong Basel II có các yêu cầu cơ bản: (i) Thời gian lưu trữ dữ liệu; (ii) Mô hình kiến trúc dữ liệu: Data model, data structure, data warehouse là tùy thuộc vào từng nhu cầu của ngân hàng, từng giai đoạn phát triển của mỗi ngân hàng; (iii) Chất lượng dữ liệu.
Từ thực trạng phân tích chương 3, nhận định chung về CSDL của các NHTM có nhưng thiếu và không đồng bộ. Nếu không chuẩn hóa và đồng bộ hệ thống dữ liệu thì các NHTM khi triển khai các thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II sẽ khó có thể xây dựng được mô hình QTRRTD chính xác. Các NHTM nên có sự phối hợp trong vấn đề tập trung dữ liệu để có thể có kết quả ước tính PD chính xác thì kết quả xếp hạng tín dụng mới chính xác. So sánh với các Ngân hàng quốc tế thì hệ thống CSDL các NHTM còn xa mới đáp ứng được yêu cầu, nhân tố thông tin bất đối xứng, không cập nhật (một khách hàng có thể là nợ xấu của nhiều ngân hàng, thực hiện đảo nợ liên tục nhưng xếp hạng tín dụng vẫn tốt, các NHTM lôi kéo khách hàng lẫn nhau). Như vậy, muốn triển khai Basel II hiệu quả, muốn nâng cao năng lực QTRRTD nói chung, năng lực CSDL nói riêng, các NHTM nên có sự hợp tác trong vấn đề tập trung dữ liệu, ngoài trung tâm dữ liệu CIC hiện nay. Xây dựng Trung tâm dữ liệu sử dụng để XHTD nội bộ của cả hệ thống NHTM Việt Nam, trước hết là hệ thống dữ liệu của nhóm 10 NHTM triển khai Basel II vào cuối năm 2015.Để có được cơ sở dữ liệu tốt cho Trung tâm dữ liệu, là nền tảng cho hệ thống XHTD sau này, các NHTM cần có những giải pháp nâng cao số lượng, chất lượng dữ liệu từ các nguồn thu thập. CSDL phục vụ cho việc chấm điểm, XHTD nội bộ là dữ liệu từ khách hàng, ngân hàng và từ bên ngoài. Một số giải pháp cụ thể cho các NHTM như sau:
Thứ nhất, khối lượng dữ liệu
(i) Ngân hàng phải lưu trữ đủ CSDL về tình hình không trả được nợ của khách hàng (quy mô mẫu khả sát lớn); Dữ liệu phải được lưu trữ tối thiểu trong 5 năm về khả năng không trả được nợ của khách hàng để ngân hàng xây dựng mô hình tính xác suất không trả được nợ (PD).
(ii) Ngân hàng phải thu thập, duy trì và phân tích các nguồn thông tin quan trọng liên quan đến xếp hạng từng khách hàng, khoản cấp tín dụng trong suốt thời
gian vay vốn của khách hàng/khoản tín dụng theo vòng đời khoản vay từ đề xuất tín dụng – phê duyệt vay – các giao dịch trả nợ - xử lý nợ (nếu có). Tất cả các dữ liệu này cần được lưu trữ trên hệ thống, ngay cả khi khoản vay đã tất toán. Để đáp ứng được yêu cầu, các NHTM phải bổ sung, thiết kế các phần mềm tích hợp các thông tin từ hệ thống core, bổ sung các hệ thống Dữ liệu về tài sản đảm bảo, Dữ liệu về xử lý nợ; Tần suất thanh toán nợ, các gian lận trong lịch sử giao dịch của khách hàng. Các thông tin này là thành phần quan trọng cho các ước tính LGD và EAD. Ngân hàng phải xây dựng chuẩn mực các loại thông tin cần thu thập và ban hành hướng dẫn thống nhất cách hiểu áp dụng chung cho toàn hệ thống.
Thứ hai, chất lượng dữ liệu: Các tiêu chí CSDL của ngân hàng bao gồm: chính xác, đầy đủ, đồng nhất, hiệu lực, kịp thời và dễ tiếp cận. Để đáp ứng các tiêu chí đó, các NHTM cần:
(i) Kiểm tra sơ bộ dữ liệu: Xác định dữ liệu thiếu thông thể thu thập được từ hệ thống; Xác định sơ bộ dữ liệu sai sót hoặc không đồng nhất với chất lượng dữ liệu. Sau khi kiểm tra dữ liệu sơ bộ, ngân hàng phải đảm bảo có biện pháp điều chỉnh, bổ sung các dữ liệu còn thiếu, loại bỏ/sửa chữa các sai sót dữ liệu;
(ii) Chuẩn hóa dữ liệu: Xác định, sửa chữa và loại bỏ các sai sót hoặc yếu tố không đồng nhất; Phát hiện lỗi dữ liệu, bỏ các thông tin trùng lặp, kết nối tất cả các dữ liệu liên quan đến một khách hàng/khoản cấp tín dụng. Việc chuẩn hóa dữ liệu sẽ tạo hệ thống CSDL nhất quán, loại bỏ dữ liệu đa nguồn, trùng lắp.
4.3.6. Giải pháp đối với năng lực bộ máy kiểm toán nội bộ (KTNB)
Nâng cao năng lực kiểm soát nội bộ (KSNB), bộ máy kiểm toán nội bộ (KTNB) tại các NHTM Việt Nam là tăng khả năng cho NHTM đáp ứng được các yêu cầu bộ máy KTNB theo thông lệ và chuẩn mực Basel II:
Trước hết, mô hình bộ máy KTNB của các NHTM xây dựng phù hợp với quy mô của ngân hàng, đảm bảo bộ máy KTNB có sự gắn kết, tương tác với các lớp tổ chức của bộ máy QTRR ngân hàng. Theo thông lệ quốc tế, bộ phận kiểm toán nội bộ phải được quyền báo cáo trực tiếp lên HĐQT và Ban Kiểm soát mà không cần thông qua các đơn vị khác của ngân hàng, nhằm đảm bảo khách quan, phát hiện, xử lý kịp thời các vấn đề của công tác QTRR của ngân hàng;
Hai là, bộ máy KTNB hoạt động theo đúng các nguyên tắc cơ bản: độc lập, khách quan, chuyên nghiệp nhằm thực hiện các chức năng của KTNB: rà soát, đánh giá độc lập về mức độ đầy đủ, tính thích hợp, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống KSNB, phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm, đưa ra các kiến nghị nhằm nâng