Trụ cột 3 - Kỷ luật thị trường, minh bạch thông tin: Các ngân hàng thương mại phải xây dựng niềm tin của khách hàng, nhà đầu tư, do đó Cơ quan Nhà nước cần sớm đưa ra bộ tiêu chuẩn đánh giá các quy định công khai thông tin chặt chẽ theo quy định Basel II đối với rủi ro tín dụng và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với rủi ro tín dụng. Các cơ quan quản lý, Ngân hàng Nhà nước nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý đầy đủ hơn để các Ngân hàng thương mại có căn cứ để thực hiện xếp hạng tín dụng nội bộ theo hướng thông lệ quốc tế, đưa ra một lộ trình rõ ràng đảm bảo tất cả các ngân hàng thương mại đều phải tuân thủ, qua đó thúc đẩy công tác hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại mỗi ngân hàng. Xây dựng các quy định pháp lý, hình thành thị trường cho các công cụ tín dụng phái sinh. Công cụ tín dụng phái sinh cần có một cơ chế giám sát hữu hiệu và hành lang pháp lý chặt chẽ thì mới phát huy được hiệu quả ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro tín dụng nên rất cần nhà nước ban hành các quy định pháp lý phù hợp.
Thứ hai, hỗ trợ nâng cao năng lực tài chính cho các Ngân hàng thương mại
Quy mô vốn và tài sản của Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam dù tăng nhanh trong thời gian qua, nhưng so với các ngân hàng trong khu vực còn rất nhỏ, nợ xấu chưa được xử lý triệt để, tốc độ tăng trường tín dụng nhanh nhưng không hiệu quả là nguyên nhân hạn chế năng lực quản trị rủi ro tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Dưới giác độ cơ quan quản lý nhà nước, Ngân hàng Nhà nước cần quản lý, hỗ trợ thực hiện các biện pháp nâng cao năng lực tài chính cho hệ thống ngân hàng. Cụ thể:
Nhóm giải pháp hỗ trợ các giải pháp tăng vốn của các Ngân hàng thương mại như:
- Tăng vốn thông qua cổ phần hóa và trên thị trường chứng khoán:
(i) Các cơ quan quản lý, Ngân hàng Nhà nước cần tạo điều kiện để tăng vốn cho các Ngân hàng thương mại nhằm đáp ứng yêu cầu theo chuẩn mực Basel II sẵn sàng chống đỡ, giảm thiểu khi rủi ro hệ thống xảy ra;
(ii) Các cơ quan quản lý, Ngân hàng Nhà nước cần sửa đổi bổ sung và ban hành các quy định về thị trường trái phiếu ngân hàng, cổ phiếu, cần có
cơ chế đảm bảo hoạt động hiệu quả của thị trường chứng khoán. Ngoài ra, điều chỉnh/bổ sung các quy định về giới hạn vốn góp, mua cổ phần (bổ sung các khái niệm vốn góp, mua cổ phần, các tỷ lệ, giới hạn nắm giữ) tạo điều kiện cho việc triển khai các giải pháp tái cơ cấu hệ thống Tổ chức tín dụng.
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn Thiện Tuyến Phòng Thủ Cuối Cùng (Kiểm Soát Nội Bộ) Trong Mô Hình 3 Tuyến Phòng Thủ, Hoàn Thiện Hệ Thống Cảnh Báo Sớm Rủi Ro Tín Dụng (Ews) Nhằm
- Nâng Cao Năng Lực Xử Lý Rủi Ro Tín Dụng, Áp Dụng Các Công Cụ Phân Tán Rủi Ro Như Chứng Khoán Hóa Các Khoản Vay, Các Công Cụ Phái Sinh, Bảo Hiểm Tín
- Tăng Cường Năng Lực Xây Dựng Và Ứng Dụng Hệ Thống Thông Tin Quản Lý, Cơ Sở Hạ Tầng Tin Học
- Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam 1683910258 - 26
- Hệ Thống Xếp Hạng Tín Dụng Nội Bộ Với Kh Cá Nhân Của Techcombank
- Quy Định Về Phân Loại Nợ Và Trích Lập Dự Phòng Của Techcombank
Xem toàn bộ 265 trang tài liệu này.
- Nâng cao năng lực vốn bằng mua bán, sáp nhập, yêu cầu đối với Ngân hàng Nhà nước, bao gồm:
(i) Rà soát và hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động hợp nhất, sáp nhập giữa các Ngân hàng thương mại có nhu cầu tự nguyện và có yêu cầu bắt buộc;
(ii) Có chiến lược phát triển Ngân hàng thương mại phù hợp cả về số lượng, năng lực tài chính, từ đó Ngân hàng Nhà nước xây dựng chính sách điều hành kinh tế theo đúng mục tiêu vĩ mô đã xây dựng nhằm giúp các Ngân hàng thương mại đi theo đúng mục tiêu, các Ngân hàng thương mại phải tăng vốn điều lệ trước rồi mới xin cấp phép mở rộng hoạt động kinh doanh;
(iii) Hạn chế tối đa việc sáp nhập theo công thức cộng nghĩa là các Ngân hàng thương mại yếu kém sáp nhập với nhau để tạo thành khu vực Ngân hàng thương mại yếu kém từ đó các cơ quan quản lý xây dựng giải pháp kiểm soát các ngân hàng này để đạt mục đích về số lượng Ngân hàng thương mại theo lộ trình thời gian; và
(iv) Đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng thông qua việc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức tài chính, ngân hàng nước ngoài có năng lực tài chính, công nghệ, trình độ, kinh nghiệm quản trị nắm giữ cổ phần và tham gia quản trị các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Cùng với các giải pháp trên từ phía cơ quan quản lý, các Ngân hàng thương mại sẽ phải chủ động thực hiện tăng vốn chủ sở hữu nhằm ứng phó với rủi ro, đáp ứng yêu cầu về vốn theo khung an toàn Camel, nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam; đảm bảo đúng nguyên tắc tín dụng, thu hồi vốn cho vay đúng hạn; kiểm tra nghiêm ngặt các dự án đầu tư, đảm bảo nguyên tắc có lợi
nhuận mới đầu tư... Đồng thời, đẩy mạnh việc triển khai các phương án kinh doanh và nâng cao năng lực tài chính, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh; nâng cao khả năng cạnh tranh và đảm bảo hoạt động kinh doanh tăng trưởng, an toàn, hiệu quả, bền vững.
Nhóm giải pháp tiếp tục đẩy mạnh xử lý triệt để nợ xấu:
- Minh bạch về số liệu nợ xấu thông qua việc triển khai biện pháp kiểm tra và giám sát chặt chẽ hoạt động của từng tổ chức tín dụng, đảm bảo các thông tin về nợ xấu do các tổ chức này cung cấp phải hợp lệ với quy định của quy định pháp luật. Nâng cao vai trò của VAMC thông qua việc bổ sung một số quyền cho VAMC trong việc phát mãi tài sản; Cần có nguồn vốn lớn hơn nữa và dài hạn để VAMC mua nợ xấu theo giá thị trường; Tăng cường sự phối hợp giữa VAMC với các công ty quản lý tài sản (AMC) của các Ngân hàng thương mại và công ty TNHH mua bán nợ Việt Nam (DATC).
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, đẩy nhanh việc xây dựng thị trường mua bán nợ xấu nhằm thúc đẩy việc bán và thu hồi nợ xấu: cần phát triển một hệ thống pháp lý cho phép nợ xấu được thu hồi nhanh chóng và dứt khoát nhằm thúc đẩy hoạt động thu hồi nợ xấu và gia tăng số lượng nhà đầu tư mua nợ xấu. Thị trường mua bán nợ xấu, có thể phát triển trên nền tảng thị trường mua bán nợ hiện nay, bổ sung thêm “nợ xấu” vào danh mục hàng hóa, tập trung sẽ gồm các hoạt động: mua bán nợ (xấu); dịch vụ môi giới mua bán nợ; dịch vụ sàn giao dịch nợ; và dịch vụ tư vấn mua bán nợ. Để phát triển trên nền tảng thị trường mua bán nợ hiện tại thì trước hết:
(i) Phải đảm bảo nguồn cung hàng hóa, tức các món nợ xấu, không bị gián đoạn tại một thời điểm nào đó do bất kỳ lý do chủ quan nào. Cụ thể hơn, thị trường mua bán nợ sẽ phát triển lành mạnh khi có hàng hóa đa dạng, ở quy mô đủ lớn, rõ ràng về nguồn gốc, hấp dẫn người mua tiềm năng;
(ii) Hàng hóa mua bán trên thị trường nợ xấu cần phải theo quy luật cung - cầu thị trường. Luật riêng về xử lý nợ xấu sẽ khắc phục được tình trạng việc xử lý TSBĐ phải dựa vào nhiều luật có liên quan như hiện nay gồm: Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự gây nên chồng chéo, tiến độ giải quyết chậm và phức tạp.
(iii) Thứ ba, quản lý hiệu quả hệ thống thông tin quản trị rủi ro tín dụng toàn hệ thống ngân hàng
Kết quả phân tích và khảo sát tại chương 2 cho thấy, một trong những vấn đề khó khăn trở ngại trong quá trình triển khai Basel II nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam là nền tảng công nghệ thống tin, cơ sở dữ liệu thiếu và không đồng bộ, khó có thể đáp ứng việc xây dựng các mô hình đo lường rủi ro tín dụng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động thông tin tín dụng mặc dù đã dần được hoàn thiện với các văn bản như Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (Luật các tổ chức tín dụng); Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 (Luật Ngân hàng Nhà nước); Nghị định 10/2010/NĐ-CP ngày 12/02/2010 của Chính phủ về hoạt động thông tin tín dụng; Thông tư 16/2010/TT-NHNN ngày 25/6/2010 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn Nghị định 10/2010/NĐ-CP; Thông tư 03/2013/TT-NHNN ngày 28/01/2013 về hoạt động thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Thông tư 35/2011/TT-NHNN ngày 11/11/2011 quy định việc công bố và cung cấp thông tin của Ngân hàng Nhà nước; Thông tư 18/2012/TT-NHNN ngày 28/5/2012 về việc sửa đổi Thông tư 35/2011/TT-NHNN; Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 về quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng…, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những “khoảng trống” pháp luật điều chỉnh hoạt động thông tin tín dụng. Chẳng hạn, thông tin tín dụng mà Ngân hàng thương mại có thể tiếp cận từ cơ quan thuế, cơ quan hải quan, cơ quan công an... là rất khó khăn do cơ chế pháp lý chưa rõ ràng. Cụ thể, Luật Quản lý thuế năm 2006, Luật Quản lý thuế sửa đổi năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định về cung cấp thông tin về người nộp thuế cho các đối tượng có nhu cầu như Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác, ngoại trừ các quy định về công khai thông tin vi phạm pháp luật thuế (Điều 74 Luật Quản lý thuế) và trao đổi, cung cấp thông tin hải quan, thông tin về người nộp thuế trong lĩnh vực thuế, giao thông vận tải, thông tin và truyền thông phục vụ mục tiêu quản lý nhà nước theo Thông tư liên tịch 235/2009/TTLT/BTC-BGTVT-BTTTT. Bên cạnh đó, việc vận hành
hệ thống thông tin tín dụng còn tương đối mới, ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng thông tin tín dụng. Ngoài ra, các Ngân hàng thương mại vẫn chủ yếu tập trung vào nguồn thông tin tín dụng từ dữ liệu tại chính ngân hàng mình, chưa chú trọng vào những thông tin từ những nguồn khác. Cơ chế phối hợp giữa các chủ thể có khả năng cung cấp nguồn thông tin tín dụng còn hạn chế, do đó, hệ thống thông tin tín dụng còn rời rạc, chắp nối, chưa liên kết thành hệ thống có độ tin cậy cao, ảnh hưởng đến chất lượng quản trị rủi ro tín dụng của toàn hệ thống Ngân hàng thương mại.
Cơ quan quản lý, Ngân hàng Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc điều phối, hỗ trợ các Ngân hàng thương mại khắc phục khó khăn này thông qua các giải pháp:
- Một là, thiết lập đầy đủ cơ sở pháp lý cho việc hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng thông qua việc ban hành Luật Tiếp cận thông tin. Việc xây dựng và ban hành Luật Tiếp cận thông tin sẽ đảm bảo quyền Tiếp cận thông tin của tổ chức và cá nhân, trong đó có Ngân hàng thương mại trong hoạt động tiếp cận thông tin; giải quyết căn bản những hạn chế, khó khăn trong hoạt động thông tin thông qua việc quy định nội dung về “dịch vụ thông tin” cho các tổ chức và cá nhân có nhu cầu, quy định trách nhiệm cung cấp thông tin, bảo vệ bí mật thông tin, cơ chế phối hợp của các cơ quan về thông tin. Đồng thời, thay đổi mô hình tổ chức của trung tâm thông tin tín dụng từ đơn vị sự nghiệp có thu sang mô hình doanh nghiệp là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ. Điều này đảm bảo tăng cường hiệu quả của “dịch vụ thông tin” do trung tâm thông tin tín dụng cung cấp cho các tổ chức và cá nhân, trong đó có Ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, cần bãi bỏ quy định việc Ngân hàng thương mại chỉ cung cấp thông tin cho một công ty thông tin tín dụng mà không được cung cấp thông tin tín dụng cho công ty thông tin tín dụng khác.
- Hai là, Ngân hàng Nhà nước cần có quy định cụ thể khuyến khích các Ngân hàng thương mại sử dụng phương pháp thống kê để lượng hóa rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế. Việc này sẽ đảm bảo cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam hoạt động chuyên nghiệp, an toàn hơn. Ngân
hàng Nhà nước cần chủ trì là đầu mối xây dựng Trung tâm dữ liệu cho toàn hệ thống các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Đồng thời, ban hành bộ chỉ tiêu để Ngân hàng thương mại xây dựng hệ thống cảnh báo sớm EWS cho cả hệ thống, hướng dẫn và yêu cầu các Ngân hàng thương mại tự xây dựng EWS để cảnh bảo sớm rủi ro, giúp nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng.
- Ba là, Nâng cao vai trò của Trung tâm thông tin tín dụng và các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước là nơi lưu trữ tập trung dữ liệu, ngày càng hoàn thiện và phát triển, đóng vai trò cung cấp, xây dựng nền tảng hệ thống thông tin khách hàng, thực hiện phân tích, xếp hạng tín dụng. Tuy nhiên chất lượng và số lượng thông tin chưa thực sự đáp ứng kịp thời và chuẩn hóa theo các quy định của Basel II. Trong thời gian tới, Cơ quản quản lý, Ngân hàng Nhà nước cần nâng cao vai trò của Trung tâm thông tin tín dụng thông qua lưu trữ và cung cấp thông tin chính xác, kịp thời và đầy đủ, giúp các Ngân hàng thương mại có thêm cơ sở pháp lý đưa ra các quyết định tín dụng, quản lý và giảm thiểu rủi ro phát sinh. Ngoài ra, cơ quan quản lý Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước nên có chính sách khuyến khích thành lập các đơn vị xếp hạng độc lập làm cơ sở tham chiếu chung trong công tác đánh giá rủi ro khách hàng của các Ngân hàng thương mại; Các chính sách bắt buộc các doanh nghiệp (kể cả các doanh nghiệp chưa niêm yết) công khai thông tin. Yêu cầu các doanh nghiệp phải hoạt động minh bạch nhờ đó các Ngân hàng thương mại có thông tin đảm bảo để đo lường rủi ro tín dụng được chính xác.
Thứ tư, hoàn thiện, đổi mới mô hình giám sát, ổn định tài chính quốc gia
Mô hình giám sát tài chính quốc gia hiện nay của Việt Nam được vận hành dựa trên mô hình giám sát theo lĩnh vực với các cơ quan giám sát chuyên biệt đối với từng lĩnh vực của hệ thống tài chính; cụ thể, Bộ Tài chính giám sát lĩnh vực chứng khoán và bảo hiểm; Ngân hàng Nhà nước thực hiện giám sát lĩnh vực ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại đang được giám sát bởi Ngân hàng Nhà nước theo những quy định có
tính chất pháp lý cao. Các quy định pháp luật này tại Việt Nam sẽ do Quốc hội ban hành, chính Ngân hàng Nhà nước lại được Quốc hội giao cho việc ban hành các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh ngân hàng. Như vậy, Ngân hàng Nhà nước vừa ra luật hoạt động cho các ngân hàng, vừa kiểm tra, thanh tra. Ở một khía cạnh nào đó việc này giúp cho Ngân hàng Nhà nước hiểu rõ được hoạt động kinh doanh thì việc thanh tra sẽ thuận lợi, nhưng chính điều đó cũng khiến cho công tác kiểm tra và giám sát thiếu tính khách quan. Theo nguyên tắc luật thì chức năng lập pháp và hành pháp nên được tách biệt. Hoạt động kinh doanh ngân hàng muốn hiệu quả, công tác giám sát an toàn hoạt động khách quan thì các ngân hàng cần quản lý theo đúng bản chất pháp luật từ ban hành, xây dựng pháp luật, điều chỉnh hành vi xây dựng pháp luật gắn với bản chất hoạt động. Theo nguyên tắc số 24 về giám sát hợp nhất của Basel [5, 57], về “Các nguyên tắc chính trong giám sát ngân hàng hiệu quả”, cơ quan giám sát phải giám sát nhóm ngân hàng trên cơ sở hợp nhất, giám sát đầy đủ và khi cần phải áp dụng các tiêu chuẩn đảm bảo an toàn.
Nghiên cứu về xu hướng cải cách ở các quốc gia của BIS (2018) cho thấy, một mô hình giám sát tài chính phù hợp là yếu tố đảm bảo cho việc thực hiện hiệu quả chức năng ổn định tài chính của bất kỳ quốc gia nào. Mô hình giám sát phù hợp góp phần thực hiện giám sát hiệu quả bằng cách tăng cường sự phối hợp giữa các chức năng, tăng cường khả năng phục hồi của hệ thống tài chính, giảm thiểu khả năng xảy ra khủng hoảng. Bên cạnh đó, những bất cập tiềm tàng giữa chính sách an toàn vi mô, chính sách an toàn vĩ mô, chính sách tiền tệ và chính sách bảo vệ người tiêu dùng/nhà đầu tư cũng cần được đánh giá để tối ưu hóa hiệu quả tổng thể của các nhóm chính sách.
Từ năm 2008, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia đã được thành lập nhằm tư vấn cho Chính phủ trong việc điều phối giám sát hệ thống tài chính. Năm 2013, Chính phủ đã bổ sung chức năng nhiệm vụ đối với ổn định hệ thống tiền tệ, tài chính cho Ngân hàng Nhà nước theo Nghị định số 156/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 (nay là Nghị định 16/2017/NĐ-CP) bao
gồm: tổng hợp, phân tích, dự báo tình hình tiền tệ, tài chính; đề xuất các biện pháp ngăn ngừa rủi ro có tính hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, tài chính; xây dựng chính sách, biện pháp ứng phó khủng hoảng, đảm bảo ổn định hệ thống tiền tệ, ngân hàng, tài chính. Tuy nhiên, do mô hình giám sát tài chính theo lĩnh vực, việc thực hiện đầy đủ chức năng ổn định hệ thống tài chính chỉ có thể thực hiện khi có sự phối hợp đồng bộ giữa Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành liên quan (cụ thể là Bộ Tài chính). Điều này đòi hỏi, chức năng ổn định phải được quy định ở văn bản pháp luật cao hơn (như luật hóa chức năng ổn định tài chính) để đảm bảo tính thực thi và phối hợp thực sự giữa các cơ quan; hoặc hình thành một ủy ban/hội đồng thực hiện chức năng ổn định tài chính như một số quốc gia. Mặc dù Vụ Ổn định tiền tệ tài chính (thuộc Ngân hàng Nhà nước) với chức năng tham mưu, giúp Thống đốc trong hoạt động, phân tích, đánh giá, thực thi chính sách an toàn vĩ mô của hệ thống tài chính và biện pháp phòng ngừa rủi ro có tính hệ thống của hệ thống tài chính; tuy nhiên, cần xem xét xây dựng hệ thống giám sát tài chính quốc gia hợp nhất thực hiện giám sát chéo các lĩnh vực kinh tế là ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm. Bên cạnh đó, cần tăng cường cơ sở pháp lý cho vấn đề ổn định tài chính bằng cách Luật hóa chức năng ổn định tài chính và giao thầm quyền cho các cơ quan liên quan trong đó, xác định Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò đầu mối (chủ trì) về ổn định tài chính; Đảm bảo tính hiệu quả thực thi chức năng ổn định tài chính thông qua việc đưa vấn đề ổn định tài chính vào trong cơ chế phối hợp của các cơ quan liên quan trong mạng lưới an toàn tài chính. Ngoài ra, Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tăng cường trao đổi thông tin với cơ quan giám sát ngân hàng nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm.