Nâng Cao Năng Lực Xây Dựng Và Vận Hành Các Công Cụ Đo Lường Rủi Ro Tín Dụng


hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam cần được thực hiện song song và kết hợp với việc hoàn thiện các công cụ đo lường và đánh giá rủi ro.

Hoàn thiện văn hóa quản trị rủi ro trong ngân hàng

Văn hóa quản trị rủi ro được cấu thành từ những giá trị, chiến lược, mục tiêu, niềm tin, thái độ đối với rủi ro, qua đó định hình cho mỗi ngân hàng những quan điểm về sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi ích [59].

Tư duy về văn hóa quản trị rủi ro là một vấn đề nhận được sự quan tâm lớn từ các nhà quản trị ngân hàng trong thời gian gần đây. Để có thể thực sự tạo nên những chuyển biến trong toàn hàng và có tác động đến tất cả các cấp độ từ nhân viên đến quản lý, Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam cần xây dựng “văn hóa rủi ro” vững mạnh, có thể tạo ra được giá trị nội tại lớn lao để nâng cao và cải thiện năng lực quản trị rủi ro nói chung và năng lực quản trị rủi ro tín dụng nói riêng.

Thứ nhất, cần có sự nhận thức và thay đổi nhất định trong văn hóa quản trị rủi ro. Văn hóa quản trị rủi ro đối với ban lãnh đạo ngân hàng đó là nhận thức tầm quan trọng của quản trị rủi ro nói chung và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng. Việc xây dựng và triển khai kế hoạch kinh doanh của ngân hàng khi các quyết định kinh doanh phải dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro và năng lực tài chính để bù đắp rủi ro. Thay vì cạnh tranh, phát triển dựa vào tăng trưởng tín dụng, lợi nhuận, các nhà quản trị ngân hàng cần tập trung hoàn thiện rủi ro mà vấn đề cần được ưu tiên đó là tăng chi đầu tư cho công tác quản trị rủi ro. Năng lực quản trị điều hành của ngân hàng sẽ được đánh giá là hiệu quả khi thiết lập được văn hóa quản trị rủi ro vững mạnh. Để xây dựng được văn hóa quản trị rủi ro nói chung, quản trị rủi ro tín dụng nói riêng, Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam cần có:

(i) Ban lãnh đạo của ngân hàng cần có sự quan tâm thích đáng và hỗ trợ hoạt động quản trị rủi ro, tiếp nhận và thảo luận về rủi ro cũng như những biện pháp xử lý rủi ro.

(ii) Thực hiện phân quyền và trách nhiệm cho nhân viên trong việc quản trị rủi ro tín dụng trên cơ sở đảm bảo đội ngũ nhân viên trong bộ máy


quản trị rủi ro có đủ năng lực và trình độ tiếp cận các phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 265 trang tài liệu này.

(iii) Quản trị rủi ro tín dụng độc lập nhưng không tách rời với hoạt động tín dụng, mục tiêu của quản trị rủi ro tín dụng luôn bám sát với mục tiêu hoạt động tín dụng

(iv) Các chiến lược, chính sách và quy trình quản trị rủi ro tín dụng cần được đặt trong mối tương quan với các rủi ro khác, phải được xây dựng một cách bài bản, rõ ràng và thống nhất toàn hàng.

Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam 1683910258 - 21

(v) Nâng cao thái độ sẵn sàng chia sẻ thông tin, minh bạch hóa thông tin, nhất là thông tin về quản trị rủi ro.

(vi) Chủ động học hỏi kinh nghiệm, phân tích các tình huống rủi ro để nâng cao khả năng nhận biết, kiểm soát và xử lý rủi ro. Năng lực quản trị rủi ro phải được coi như một vấn đề cốt lõi đảm bảo sự phát triển bền vững của ngân hàng.

(vii) Bộ phận đo lường và kiểm soát rủi ro tín dụng tồn tại độc lập với bộ phận chấp nhận và quản lý rủi ro tín dụng.

Thứ hai, hoàn thiện nguyên tắc, quy trình, chính sách quản trị rủi ro. Văn hóa rủi ro là yếu tố căn bản trong khung đánh giá năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo các thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II. Để hoàn thiện văn hóa rủi ro, cần thực hiện các biện pháp triển khai, phòng ngừa giảm thiểu rủi ro, chỉnh sửa, hoàn thiện chính sách, quy trình nghiệp vụ, sắp xếp luân chuyển và đào tạo cán bộ xây dựng văn hóa rủi ro riêng cho từng ngân hàng, từ đó tạo văn hóa rủi ro chung cho cả hệ thống ngân hàng. Để đáp ứng các yêu cầu khi triển khai Basel II, các nhà quản trị rủi ro cần phải cập nhật các phương pháp, công cụ đo lường và quản lý rủi ro mới theo văn hóa mới - văn hóa giám sát, kiểm tra tính tuân thủ các nguyên tắc, quy trình, chính sách được quy định trong Khung quản trị rủi ro và khẩu vị rủi ro. Muốn vậy, Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam phải tăng cường năng lực cho bộ phận kiểm soát, kiểm toán nội bộ phối hợp với các Cơ quan giám sát của Ngân hàng Nhà nước.


Thứ ba, nâng cao về nhận thức văn hóa quản trị rủi ro không chỉ cần thiết đối với ban lãnh đạo và bộ phận quản trị rủi ro, đó là nhận thức của tất cả các nhân viên ngân hàng, từ các bộ phận kinh doanh (front - office), bộ phận quản lý rủi ro (middle - office) đến bộ phận tác nghiệp (back - office).

Trên thực tế, cần có giai đoạn chuyển đổi để thay đổi nhận thức của ban lãnh đạo và của các cán bộ trong ngân hàng, xây dựng văn hóa kiểm soát, tập quán quản trị rủi ro của các ngân hàng. Để hướng tới nâng cao nhận thức văn hóa quản trị rủi ro đối tất cả cán bộ nhân viên, Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam cần chú trọng:

(i) truyền thông về quản trị rủi ro và văn hóa quản trị rủi ro tới tất cả các nhân viên ngân hàng;

(ii) Đào tạo về văn hóa quản trị rủi ro

(iii) thực hành văn hóa quản trị rủi ro gắn liền với các nghiệp vụ thực hiện trong quá trình vận hành

Hoàn thiện hệ thống văn bản quy định

Ngân hàng cần rà soát và có những điều chỉnh thích hợp các chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng như chính sách quy trình tín dụng, chính sách quản trị rủi ro, chính sách quản lý danh mục tín dụng, chính sách phân loại rủi ro, chính sách trích lập dự phòng rủi ro nhằm đảm bảo tính hợp lý, tránh trùng lắp và nhất quán với chiến lược phát triển chung cũng như khẩu vị rủi ro của ngân hàng.

Theo khuyến nghị của Basel II [38] thì ngân hàng phải thực hiện chính sách xếp hạng rủi ro, phân loại tài sản ngay từ khi phát sinh khoản vay, các đánh giá sơ bộ được tiến hành và sàng lọc ngay các khoản vay theo một số tiêu chí loại bỏ, nếu được chấp nhận hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ sẽ chấm điểm, tính toán các thông số về PD, LGD, EAD, mối tương quan, và căn cứ vào đó đánh giá rủi ro thông qua mức giá (lãi suất) áp dụng cho khoản tín dụng.

Tái cấu trúc bộ máy quản trị rủi ro tín dụng


Năng lực quản trị điều hành là khả năng xây dựng chính sách/chiến lược, tất cả nội dung ban hành, các thay đổi trong chiến lược quản trị rủi ro đều phải bắt đầu từ đội ngũ lãnh đạo cao cấp trong ngân hàng.

Bộ máy quản trị rủi ro là tập hợp các mối quan hệ trong cơ cấu tổ chức giữa Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Ban điều hàng, các cổ đông và những người có lợi ích liên quan, với trách nhiệm cao nhất và cuối cùng về quản trị rủi ro thuộc về Hội đồng quản trị. Một cơ chế tổ chức quản trị rủi ro hiệu quả phải xác định rõ vai trò và trách nhiệm của từng cá nhân tham gia vào hoạt động tạo rủi ro, quản trị rủi ro, tránh trường hợp các nhiệm vụ chồng chéo giữa các các cấp quản lý. Như vậy, muốn nâng cao năng lực quản trị điều hành, Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam cần phải tái cấu trúc hệ thống cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý rủi ro hiện nay:

Thứ nhất, xây dựng cơ cấu tổ chức quản trị rủi ro

Hiện nay, Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam đã thành lập Ủy ban Quản lý rủi ro trực thuộc Hội đồng quản trị, Hội đồng quản lý Tài sản Nợ - Có (ALCO) trực thuộc Ban điều hành; đã áp dụng mô hình quản trị rủi ro tập trung, có sự tách biệt độc lập giữa 3 chức năng: kinh doanh, quản lý rủi ro và kiểm soát rủi ro. Tuy nhiên, Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam nên thống nhất tuân theo cơ cấu tổ chức tách bạch hoàn toàn 3 chức năng này, trong đó bộ phận quản trị rủi ro độc lập phải được tham gia vào tất cả các quyết định chiến lược ngân hàng.

Do đặc điểm của 3 lớp phòng vệ: Hội đồng quản trị giám sát rủi ro một cách tách biệt với Ban điều hành, thông qua bộ máy Kiểm toán nội bộ rà soát độc lập. Thực tế tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam hiện nay, công việc rà soát kiểm soát rủi ro này còn có sự chồng chéo về cả nội dung và thời gian kiểm tra, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh mà lại thiếu hiệu quả. Với thực trạng trên, căn cứ chiến lược, chính sách tín dụng, các thông tư về quản trị rủi ro tín dụng Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam cần:


- Xây dựng tiêu chí kiểm soát rủi ro tín dụng chi tiết cụ thể cho từng lớp phòng vệ để các lớp này hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, theo quy trình bổ trợ, kiểm soát có hiệu quả;

- Theo mô hình 3 lớp phòng vệ thì lớp 2 và lớp 3 đều có chức năng xây dựng phương pháp, giám sát rủi ro từ chi tiết đến tổng thể. Trong quy đinh chi tiết cho từng lớp phòng vệ, phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, đối tượng kiểm soát của từng lớp, tần suất (ngày, tháng, năm), theo hạn mức của khoản tín dụng. Tất cả những quy định này cần phải được xây dựng một cách chi tiết rõ ràng;

- Xây dựng được các tiêu chí định lượng, cơ sở dữ liệu hệ thống đầy đủ hỗ trợ cho công tác kiểm tra kiểm soát;

- Thay đổi tư duy của các bộ phận tham gia trong mô hình, “tư duy rủi ro”, mục tiêu chung xác định là lành mạnh, hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng, chứ không phải báo cáo thành tích (quản trị rủi ro lớp 2 báo cáo cho Ban điều hành, quản trị rủi ro lớp 3 thuộc Ban kiểm soát, báo cáo trực tiếp lên Hội đồng quản trị).

Thứ hai, tổ chức hoạt động cần đảm bảo tính độc lập và tập trung bộ phận quản trị rủi ro trong ngân hàng:

- Quy định về số lượng thành viên Hội đồng quản trị tối đa, trách nhiệm, nhiệm vụ cụ thể của Hội đồng quản trị, cách thức tổ chức điều hành và ra quyết định. Hội đồng quản trị không tham gia vào điều hành các công việc ngân hàng có tính hàng ngày nhằm hạn chế ảnh hưởng của khẩu vị rủi ro một cá nhân lên khẩu vị rủi ro của cả ngân hàng.

- Phân tách trách nhiệm giữa các bộ phận, theo mô hình trước đây tại các Ngân hàng thương mại thì hoạt động quản trị rủi ro tín dụng phần lớn do bộ phận kinh doanh thực hiện trực tiếp như các chi nhánh, giám đốc chi nhánh hoặc các hội đồng tín dụng tại các chi nhánh được giao mức phê duyệt cụ thể. Một vài phòng ban Hội sở cũng có chức năng kinh doanh nhưng tập trung vào những khoản tín dụng lớn và dài hạn. Để xây dựng mô hình quản trị điều hành của Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam theo


khung năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II, Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam cần thực hiện:

Một là, phân tách chức năng bán hàng, chức năng thẩm định, quản lý rủi ro tín dụng và các chức năng quản lý nợ trong hoạt động cấp tín dụng cho các doanh nghiệp. Theo đó, toàn bộ việc xây dựng giới hạn tín dụng trên cơ sở xác định rủi ro tổng thể (thông qua thực hiện xếp hạng tín dụng, phân tích ngành, khả năng phát triển của khách hàng trong tương lai) do bộ phận quản lý rủi ro tín dụng thực hiện độc lập, đảm bảo tính khách quan cũng như hạn chế sự phân tán thông tin khi cung cấp các sản phẩm tín dụng. Đối với đánh giá rủi ro giao dịch (xem xét từng lần vay cụ thể), tùy theo mức độ phức tạp, giới hạn tín dụng được xác định, có thể giao cho bộ phận quan hệ khách hàng trực tiếp thực hiện thẩm định, hoặc giao cho bộ phận phân tích tín dụng. Cách thức này sẽ đáp ứng nhu cầu khách hàng nhanh chóng và phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam. Bộ phận quản lý rủi ro tín dụng thực hiện việc giám sát song song quá trình bộ phận quan hệ khách hàng thực hiện các quyết định phê duyệt tín dụng để phát hiện các dấu hiệu rủi ro cũng như can thiệp kịp thời các rủi ro có thể xảy ra. Như vậy quá trình đánh giá rủi ro được tiến hành một cách tổng thể, liên tục trước, trong và sau cấp tín dụng, nâng cao hiệu quả năng lực quản trị rủi ro tín dụng.

Hai là, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm pháp lý của bộ phận quan hệ khách hàng, quản lý rủi ro tín dụng và quản lý nợ. Sự phân tách rõ ràng trách nhiệm sẽ đảm bảo tính công bằng trong đánh giá chất lượng công việc, đảm bảo phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận tác nghiệp khi thực thi các mục tiêu quản trị rủi ro tín dụng đề ra, phù hợp với đặc thù cũng như chính sách tín dụng của ngân hàng; Ba là, tiêu chuẩn hóa cán bộ theo dõi rủi ro tín dụng để đáp ứng các yêu cầu của Basel II. Theo đó, cần xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý rủi ro có kinh nghiệm, có kiến thức và khả năng nhanh nhạy khi xem xét, đánh giá các đề xuất tín dụng. Ngân hàng xây dựng một hệ tiêu chuẩn đối với cán bộ rủi ro tín dụng như trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế trải qua các bộ phận quan hệ khách hàng.


3.2.2. Nâng cao năng lực xây dựng và vận hành các công cụ đo lường rủi ro tín dụng

Theo như kết quả khảo sát cũng như kết quả nghiên cứu mô hình, phương trình hồi quy tuyến tính đã trình bày ở chương 2, năng lực xây dựng và vận hành các công cụ đo lường có ảnh hưởng trọng yếu tới năng lực quản trị rủi ro tín dụng. Để xây dựng một công cụ/mô hình định lượng tổn rủi ro tín dụng, tổn thất tín dụng đáp ứng được tính chuẩn mực theo thông lệ quốc tế, đáp ứng kỳ vọng của ngân hàng về tính khả thi, phù hợp, hiệu quả thì bản thân mô hình không thể xây dựng một cách độc lập, mà phải được thiết kế như một cấu phần không thể tách rời trong mô hình tổng thể chung về quản trị rủi ro tín dụng.

Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ

Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ là cơ sở đầu tiên để giúp các Ngân hàng thương mại đo lường rủi ro của một khách hàng. Nhìn chung, hiện nay hệ thống xếp hạng nội bộ của Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam đang dần được hoàn thiện và tiệm cận với thông lệ quốc tế. Hệ thống xếp hạng tín dụng của Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam đã có tính độc lập giữa các bộ phận của khối quản trị rủi ro chịu trách nhiệm về xếp hạng, tính chính xác của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và các bộ phận của khối kinh doanh, khối xử lý nội bộ. Đồng thời, hệ thống xếp hạng cũng quy định rõ trách nhiệm của từng cán bộ, bộ phận liên quan tới việc xây dựng và thực hiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, kết quả xếp hạng tín dụng khách hàng được sử dụng cho hoạt động quản trị rủi ro tín dụng hàng ngày, được sử dụng để quyết định lãi suất cho cấp tín dụng, các điều khoản trong hợp đồng cấp tín dụng, hợp đồng bảo đảm của từng khoản cấp tín dụng cho khách hàng. Tuy nhiên, để hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ đạt chuẩn mực Basel II, Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam cần phải hoàn thiện một số điểm sau:

- Thực hiện đánh giá lại kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ định kỳ: hiện nay, việc đánh giá lại kết quả xếp hạng nội bộ của Ngân hàng thương


mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam chưa được tiến hành định kỳ mà mới chỉ được tiến hành khi khoản vay có phát sinh vấn đề bất thường, hoặc khi khách hàng đáo hạn khoản vay cũ và phát sinh khoản vay mới. Việc đánh giá lại xếp hạng tín dụng nội bộ được Basel II quy định phải được thực hiện định kỳ với các khoản vay không có dấu hiệu bất thường. Hiện nay một số ngân hàng Việt Nam như Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam đang thực hiện việc đánh giá lại kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ với tần suất 6 tháng với khách hàng doanh nghiệp, định chế tài chính và 1 năm với khách hàng cá nhân. Việc đánh giá lại kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ phải được tiến hành bởi một bộ phận độc lập với bộ phận thực hiện và phê duyệt xếp hạng. Các phát hiện trong quá trình đánh giá lại phải được báo cáo cho Hội đồng quản trị và Ban điều hành.

- Tăng cường sự giám sát của Hội đồng quản trị và Ban Điều hành đối với hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ: Hội đồng quản trị, chịu trách nhiệm phê duyệt hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Ban Điều hành chịu trách nhiệm giám sát đảm bảo hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ hoạt động theo những đúng quy định của pháp luật.

Hoàn thiện mô hình dự báo và lượng hóa rủi ro tín dụng

Xây dựng phương pháp đo lường rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II là xây dựng mô hình dự báo và lượng hóa các cấu phần rủi ro tín dụng (xác suất không trả được nợ PD, tỷ trọng tổn thất ước tính LGD, tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm không trả được nợ EAD). Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ đóng vai trò là nguồn dữ liệu đầu vào cho việc xây dựng các mô hình dự báo và lượng hóa rủi ro tín dụng. Kết quả của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ được ma trận chuyển đổi (Migration Matrix) sang tính toán các thông số PD, LGD, EAD, kết hợp với đánh giá mức độ tương quan, đa cộng tuyến của khoản vay bị vỡ nợ (Thông thường mức độ tương quan, đa cộng tuyến về vỡ nợ hay không trả được nợ vay ngân

Xem tất cả 265 trang.

Ngày đăng: 12/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí