Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Năng Lực Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp

bán hàng, để tạo được uy tín hơn đối với khách hàng, doanh nghiệp cần thực hiện các hoạt động dịch vụ trước, trong và sau khi bán.

Như vậy, chính sách marketing đã xuyên suốt vào quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó vừa có tác dụng chính vừa có tác dụng phụ để hỗ trợ các chính sách khác. Do vậy, chính sách marketing không thể thiếu được trong bất cứ hoạt động nào của doanh nghiệp.

1.3.4 Các công cụ cạnh tranh khác

1.3.4.1 Dịch vụ sau bán hàng

Hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp không dừng lại sau lúc bán hàng, thu tiền của khách hàng mà để nâng cao uy tín và trách nhiệm đến cùng với người tiêu dùng về sản phẩm của doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải làm tốt các dịch vụ sau khi bán hàng.

Nội dung của hoạt động dịch vụ sau bán hàng:

- Cam kết thu lại sản phẩm và hoàn trả tiền cho khách hoặc đổi lại hàng nếu như sản phẩm không theo đúng yêu cầu ban đầu của khách hàng.

- Cam kết bảo hành trong thời gian nhất định.

Qua các dịch vụ sau khi bán hàng, doanh nghiệp sẽ nắm bắt được sản phẩm của mình có đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng không.

1.3.4.2 Phương thức thanh toán

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.

Đây là một công cụ cạnh tranh được nhiều doanh nghiệp sử dụng, phương thức thanh toán gọn nhẹ hay phức tạp, nhanh hay chậm sẽ ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ. Do đó, điều này gây ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.

Các doanh nghiệp có thể áp dụng các phương pháp như:

Nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty Cổ phần Điện tử và Tin học Đà Nẵng - 3

- Đối với khách hàng ở xa thì có thể trả tiền qua ngân hàng, vừa nhanh vừa đảm bảo an toàn cho cả khách hàng lẫn doanh nghiệp.

- Với một số trường hợp đặc biệt, các khách hàng có uy tín với doanh nghiệp hoặc khách hàng là người mua sắm thường xuyên của doanh nghiệp thì có thể cho khách hàng trả chậm tiền hàng sau một thời gian nhất định.

- Giảm giá đối với khách hàng thanh toán tiền ngay sau khi mua hàng hoặc mua với số lượng lớn.

1.3.4.3 Yếu tố thời gian

Những thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ làm thay đổi nhanh cách nghĩ, cách làm việc của con người, tạo thời cơ cho mỗi người, mỗi đất nước phát triển và tiến nhanh về phía trước. Đối với các doanh nghiệp, yếu tố quyết định trong chiến lược kinh doanh hiện đại là tốc độ chứ không phải yếu tố cổ truyền như nguyên liệu lao động. Muốn chiến thắng trong cuộc cách mạng này, các doanh nghiệp phải biết tổ chức nắm bắt thông tin nhanh chóng, phải chớp lấy thời cơ, lựa chọn mặt hàng theo yêu cầu, triển khai sản xuất, nhanh chóng tiêu thụ để thu hồi vốn nhanh trước khi chu kỳ sản xuất sản phẩm kết thúc.

1.4 Vai trò cạnh tranh

Cạnh tranh là một biểu hiện đặc trưng của nền kinh tế hàng hóa, đảm bảo tự do trong sản xuất kinh doanh và đa dạng hóa hình thức sở hữu. Trong cạnh tranh nói chung và cạnh tranh trên thị trường quốc tế nói riêng, các doanh nghiệp luôn đưa ra các biện pháp tích cực và sáng tạo nhằm đứng vững trên thị trường và sau đó là tăng khả năng cạnh tranh của mình. Cạnh tranh tồn tại như một quy luật khách quan, là động lực thúc đẩy mọi hoạt động kinh tế. Cạnh tranh có vai trò quan trọng đối với cả nền kinh tế, đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Đối với nền kinh tế

- Cạnh tranh điều chỉnh cung cầu hàng hóa trên thị trường

- Cạnh tranh hướng việc sử dụng các nhân tố kinh tế đạt hiệu quả cao nhất

- Cạnh tranh có chức năng phân phối và điều hòa thu nhập

- Cạnh tranh là động lực thúc đẩy đổi mới Đối với doanh nghiệp

- Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tối ưu hóa các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh, không ngừng sáng tạo, tìm tòi.

- Cạnh tranh buộc doanh nghiệp phải không ngừng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nắm bắt thông tin kịp thời.

- Cạnh tranh quy định vị thế của doanh nghiệp trên thương trường thông qua những lợi thế mà doanh nghiệp đạt được nhiều hơn đối thủ cạnh tranh. Đồng thời cũng là yếu tố làm tăng hoặc giảm uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.

Đối với người tiêu dùng

Khi hoạt động trong nền kinh tế thị trường, nếu như lợi nhuận là yếu tố thúc đẩy

chủ thể tham gia tiến hành sản xuất thì cạnh tranh lại thôi thúc họ phải điều hành các hoạt động này sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Và đối tượng được hưởng lợi từ sự cạnh tranh này chính là người tiêu dùng. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải quan tâm mở rộng cung cấp sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đa dạng, giá cả hợp lý cho người tiêu dùng. Như vậy, cạnh tranh đảm bảo cho người tiêu dùng quyền tự do lựa chọn những sản phẩm phù hợp với nhu cầu. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng mạnh thì lợi ích người tiêu dùng ngày càng tăng.

1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

Trong điều kiện hiện nay, xu thế nền kinh tế thế giới đang mở cửa hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, để có thể tồn tại và phát triển doanh nghiệp cần nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Một doanh nghiệp muốn có được năng lực cạnh tranh tốt phải trải qua quá trình xây dựng, phát triển và tạo dựng môi trường bên trong và bên ngoài. Đó là cơ sở vững chắc cho hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp là một tế bào kinh tế của xã hội, nó luôn tồn tại và hoạt động trong môi trường kinh tế xã hội. Do đó, doanh nghiệp cần nhận thức những yếu tố tác động và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp để có những biện pháp giải quyết những tiêu cực đồng thời phát huy mặt tích cực để nâng cao năng lực cạnh tranh cho mình. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể chia thành hai nhóm: các nhân tố môi trường bên ngoài và các nhân tố môi trường bên trong.

1.5.1 Các nhân tố môi trường bên ngoài

1.5.1.1 Các nhân tố môi trường vĩ mô Các nhân tố kinh tế

Mỗi doanh nghiệp đều chịu ảnh hưởng của những tác động tích cực cũng như những biến đổi bất thường của nền kinh tế vĩ mô. Để hoạt động SXKD đạt hiệu quả đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, doanh nghiệp cần nhận thức rõ tác động của nhân tố kinh tế để có biện pháp điều chỉnh phù hợp. Các nhân tố kinh tế ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gồm có: tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, lãi suất, tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát. Thật vậy, tốc độ tăng trưởng khác nhau của nền kinh tế trong các giai đoạn thịnh vượng, suy thoái, phục hồi sẽ ảnh hưởng đến mức đầu tư của mỗi doanh nghiệp. Khi tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cao và ổn định thì tạo cơ hội đầu tư để mở rộng SXKD của doanh nghiệp. Ngược lại,

khi nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái khủng hoảng sẽ làm mức thu nhập của người dân giảm. Khi đó, việc SXKD của doanh nghiệp khó khăn, cạnh tranh trở nên khốc liệt.

Lãi suất cho vay của ngân hàng ảnh hưởng đến nguồn cung vốn của doanh nghiệp. Nếu lãi suất cao làm chi phí vốn vay của doanh nghiệp tăng, giảm hiệu quả SXKD từ đó ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Chính sách tiền tệ và tỉ giá hối đoái cũng ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mà đặc biệt là các doanh nghiệp có liên quan đến việc xuất nhập khẩu hàng hóa, nguyên vật liệu nước ngoài. Lạm phát ảnh hưởng đến giá cả, tiền công nên các doanh nghiệp giảm việc đầu tư. Như vậy, lạm phát cũng ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Các nhân tố chính trị pháp luật

Là hệ thống các quan điểm, đường lối chính sách của Chính phủ, hệ thống pháp luật hiện hành, các xu hướng ngoại giao của Chính phủ và những diễn biến chính trị trong nước, trong khu vực và trên toàn thế giới. Sự ổn định hay không về chế độ chính trị, hệ thống pháp luật và các chính sách điều tiết vĩ mô của Chính phủ… tác động đến việc hoạch định chiến lược và chương trình hành động của doanh nghiệp nhằm nắm bắt cơ hội và giảm thiểu nguy cơ xảy ra, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp.

Đây là yếu tố có tác động gián tiếp nhưng rất quan trọng, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của ngành. Các doanh nghiệp phải quan tâm đến các yếu tố này để hoạt động kinh doanh theo đúng khuôn khổ pháp luật và đầu tư phát triển lâu dài.

Các nhân tố khoa học công nghệ

Trong thời đại ngày nay, nắm bắt khoa học công nghệ là một đảm bảo cho sự thành công. Khoa học công nghệ là yếu tố tạo nên sự khác biệt cho các doanh nghiệp. Khoa học công nghệ cũng tham gia vào quá trình thu thập, xử lý, truyền đạt thông tin trong nền kinh tế. Thiếu khoa học công nghệ thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn, khó kiểm soát.

Các nhân tố văn hóa, xã hội

Gồm những chuẩn mực, những giá trị, trình độ dân trí, phong tục tập quán, thói quen tiêu dùng, dân số, tỷ lệ dân số, nghề nghiệp và phân phối thu nhập, tuổi thọ, tỷ lệ

sinh tự nhiên và sự phân bố dân cư. Những hiểu biết và thông tin về văn hóa xã hội và dân cư giúp nhà quản trị hoạch định chiến lược một cách hiệu quả.

Sự thay đổi của các yếu tố văn hóa – xã hội có thể tác động tích cực hay tiêu cực đến hoạt động của doanh nghiệp. Do đó, cần phải thường xuyên nắm bắt những thay đổi trong môi trường văn hóa – xã hội để có những phản ứng kịp thời trước đối thủ cạnh tranh.

Các nhân tố tự nhiên

Những tác động của thiên nhiên có ảnh hưởng lớn đến các quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Chính quyền ngày càng quan tâm đến vấn đề ô nhiễm môi trường, thiếu năng lượng và sử dụng lãng phí nguồn tài nguyên. Ngoài ra, khách hàng đặc biệt quan tâm đến sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên, những sản phẩm thỏa mãn các điều kiện môi trường trong quá trình sản xuất. Do đó đòi hỏi các nhà quản trị chiến lược phải có các biện pháp đảm bảo phù hợp.

Yếu tố tự nhiên có tác động rất lớn đên hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi đầu tư nhà quản trị nào biết tận dụng kịp thời lợi thế của các yếu tố tự nhiên và tránh những thiệt hại do tác hại của các yếu tố này gây ra sẽ tạo lợi thế trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh hơn các đối thủ trong ngành.

1.5.1.2 Các nhân tó môi trường vi mô Khách hàng

Khách hàng là đối tượng kinh doanh của doanh nghiệp, người góp phần tạo ra lợi nhuận, thắng lợi của doanh nghiệp. Khách hàng là những người có cầu về sản phẩm của doanh nghiệp, mà cầu là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng có tính quyết định đến mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cầu vừa tác động trực tiếp đến việc nghiên cứu quyết định cung của doanh nghiệp, vừa tác động đến cường độ và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Với xu thế cạnh tranh ngày càng cao, khách hàng đòi hỏi cao về chất lượng, giá cả, sự tiện lợi và cả về thái độ, phong cách phục vụ. Khách hàng có thể gây áp lực với doanh nghiệp bằng việc ép giảm giá, đòi hỏi chất lượng tốt hơn khiến doanh nghiệp phải đầu tư nhiều chi phí hơn cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Từ đó làm năng lực thương lượng của người mua cao.

Hơn nữa, nếu sản phẩm của doanh nghiệp không đổi mới theo kịp những thay đổi trong nhu cầu khách hàng thì họ sẽ chuyển doanh nghiệp khác có thể đáp ứng tốt hơn

yêu cầu của họ. Điều này sẽ dẫn đến thị phần của doanh nghiệp giảm, chứng tỏ sự giảm sút năng lực cạnh tranh.

Các đối thủ cạnh tranh

Các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm các doanh nghiệp đang kinh doanh cùng ngành nghề và trên cùng một khu vực thị trường với ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp.

Khả năng cung ứng của tất cả các đối thủ cạnh tranh trong một ngành tạo ra cung sản phẩm trên thị trường. Số lượng, quy mô, sức mạnh của từng đối thủ cạnh tranh đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Nhà cung ứng

Các nhà cung ứng các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp có ảnh hưởng to lớn đến chi phí sản xuất, từ đó ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Nếu việc cung ứng đầu vào gặp khó khăn, các yếu tố chi phí lên cao sẽ làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Có ba nhà cung ứng cơ bản gồm: nhà cung ứng tài chính, nhà cung ứng lao động và nhà cung ứng nguyên vật liệu, thiết bị.

- Nhà cung ứng tài chính: các doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định đều phải vay vốn, các doanh nghiệp vay vốn trên thị trường tài chính bằng phương thức vay ngắn hạn hoặc vay dài hạn.

- Nhà cung ứng lao động: việc thu hút được lao động có tay nghề, trình độ tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.

- Nhà cung ứng nguyên vật liệu, thiết bị: gây ảnh hưởng tới chất lượng, giá cả các nguyên vật liệu, thiết bị cũng như các dịch vụ đi kèm.

1.5.2 Các nhân tố môi trường bên trong

1.5.2.1 Năng lực nguồn nhân lực

Đây là yếu tố có liên quan đến toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó, đối với người công nhân, chất lượng lao động được thể hiện ở khả năng tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ quyết định chất lượng sản phẩm, còn đối với cán bộ quản lý chất lượng lao động thể hiện ở trình độ quản lý điều hành công việc quyết định hiệu quả công việc, khả năng tiết giảm chi phí, cắt giảm giá thành sản phẩm.

Năng lực tổ chức, quản lý của công ty

Năng lực tổ chức, quản lý của doanh nghiệp được coi là yếu tố quan trọng hàng

đầu ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp nếu có tổ chức tốt thì doanh nghiệp đó sẽ đạt hiệu quả SXKD cao. Năng lực trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp được thể hiện trên các mặt:

- Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý: được thể hiện ở những kiến thức, kỹ năng cần thiết để quản lý và điều hành thực hiện các công việc trong và ngoài doanh nghiệp. Năng lực của đội ngũ này không chỉ là những hiểu biết, kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ một lĩnh vực mà còn có những tư duy sáng tạo, kiến thức rộng về nhiều lĩnh vực liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp như: pháp luật trong nước và quốc tế, thị trường, tri thức tâm lý xã hội học,…

- Năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp: thể hiện ở việc sắp xếp, bố trí cơ cấu tổ chức bộ máy và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận phòng ban. Sự sắp xếp, bố trí bộ máy tổ chức của doanh nghiệp phải linh hoạt, gọn nhẹ, dễ thay đổi khi môi trường kinh doanh thay đổi, quyền lực được phân chia rõ rang để mệnh lệnh truyền đạt được nhanh chóng, góp phần tạo ra năng suất cao. Nhờ sự bố trí, sắp xếp đó mà năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ngày càng nâng cao.

Năng lực quản lý doanh nghiệp còn thể hiện trong việc hoạch định chiến lược SXKD của doanh nghiệp, lập kế hoạch, điều hành tác nghiệp, nhạy cảm với sự thay đổi của môi trường kinh doanh… Điều này có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong ngắn hạn và dài hạn. Vì vậy nó tác động mạnh mẽ tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Năng lực lao động

Lao động là yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất, có vai trò quan trọng trong sản xuất vì nó sáng tạo ra các nguồn khác. Năng lực lao động của doanh nghiệp thể hiện về mặt chất lượng và số lượng. Ngày nay với xu hướng nền kinh tế tri thức, vai trò của người lao động trong doanh nghiệp ngày càng tăng lên. Lao động không chỉ là yếu tố đầu vào mà còn là lực lượng trực tiếp sử dụng các phương tiện máy móc, thiết bị cho quá trình SXKD cho doanh nghiệp. Không những thế, lao động còn tham gia tích cực trong việc áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ mới, có những ý tưởng, sáng tạo rút ngắn thời gian lao động, cải tiến kỹ thuật giảm giá chi phí của doanh nghiệp đồng thời tăng năng suất lao động…

1.5.2.2 Năng lực cơ sở vật chất

Cơ sở vật chất là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc xem xét các yếu tố có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có liên quan đến yếu tố máy móc thiết bị công nghệ, người ta thường xem xét quy mô của cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ trang bị máy móc, thiết bị, công nghệ cho quá trình sản xuất, kinh doanh. Sử dụng công nghệ hiện đại giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao động, giảm giá thành, chất lượng sản phẩm tốt. Do đó làm cho năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tăng cao.

Trong điều kiện kinh doanh toàn cầu hóa, việc ứng dụng công nghệ vào hoạt động SXKD là phương tiện đắc lực cho cạnh tranh của các doanh nghiệp. Năng lực tiếp cận và ứng dụng công nghệ được đánh giá thông qua các tiêu chí như: khả năng trang bị công nghệ mới, mức độ đáp ứng và hiệu quả sử dụng.

1.5.2.3 Năng lực tài chính

Năng lực tài chính thể hiện ở quy mô vốn tự có, khả năng huy động các nguồn vốn khác cho SXKD và hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đó. Để hoạt động SXKD đòi hỏi các doanh nghiệp phải có lượng vốn nhất định bao gồm vốn chủ sở hữu, vốn vay và các loại vốn khác. Đồng thời các doanh nghiệp phải tiến hành phân phối, quản lý và sử dụng số vốn hiện có một cách hợp lý, có hiệu quả cao nhất trên cơ sở cấp hành các chế độ, chính sách quản lý kinh tế - tài chính và kỷ luật thanh toán của Nhà nước.

Vốn vừa là một yếu tố sản xuất cơ bản, vừa là đầu vào của doanh nghiệp và vốn đồng thời là tiền đề đối với các yếu tố sản xuất khác. Do đó, việc sử dụng vốn có ý nghĩa rất lớn trong việc giảm chi phí vốn, giảm giá thành sản phẩm. Vốn là nguồn lực mà doanh nghiệp cần phải có trước tiên để thành lập được doanh nghiệp và tiến hành hoạt động. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh là doanh nghiệp có nguồn vốn dồi dào, luôn đảm bảo huy động được vốn trong những điều kiện cần thiết, có nguồn vốn huy động hợp lý. Vì vậy, doanh nghiệp muốn nâng cao năng lực tài chính của mình thì cần củng cố và phát triển không ngừng nguồn vốn bằng nhiều cách thức, tăng vốn tự có, mở rộng quy mô vốn vay dưới nhiều hình thức.

Phát huy hiệu quả hoạt động tài chính để doanh nghiệp phát huy được năng lực nội tại của mình. Doanh nghiệp nào có tiềm lực tài chính tốt, phát huy tốt tiềm lực đó tất yếu sẽ thu được nguồn lợi nhuận cao, làm tăng thêm năng lực cạnh tranh của doanh

Xem tất cả 102 trang.

Ngày đăng: 22/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí