Quan Niệm Về Cạnh Tranh Của Ngân Hàng Thương Mại


tập trung phát triển khách hàng cá nhân theo định hướng ngân hàng bán lẻ và các khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ SME, (vi) Lựa chọn phát triển các sản phẩm để tập trung đầu tư chuyên môn hoá sâu, tránh tình trạng triển khai tràn lan rất nhiều sản phẩm không tạo ra sự cạnh tranh chuyên biệt và triển khai phương thức bán gói sản phẩm dịch vụ tiện ích theo chuỗi cung ứng vừa đảm bảo quản trị rủi ro đồng thời kiểm soát tối ưu hóa lợi nhuận.


Kết luận chương 1


Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại nói riêng thu hút được sự quan tâm lớn ở cả trong và ngoài nước. Đã có rất nhiều trường phái, quan điểm, các nhà khoa học khác nhau nghiên cứu về năng lực cạnh tranh qua các thời kỳ khác nhau trên thế giới.

Tại Việt nam cũng đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu khoa học ở các cấp, nhiều cuộc hội thảo, luận án tiến sĩ và các công trình nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại trong các giai đoạn và ở quy mô khác nhau, có những đánh giá, đề xuất các giải pháp cụ thể khác nhau.

Dựa trên kết quả nghiên cứu tổng quan, luận án đã chỉ ra những khoảng trống cả về lý luận và thực tiễn nghiên cứu chủ đề cạnh tranh của ngân hàng thương mại cần phải tiếp tục nghiên cứu hay còn những quan điểm khác nhau cần tiếp tục được giải quyết.


Chương 2

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 190 trang tài liệu này.

NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG


Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế trên thị trường Việt Nam - 4

2.1. Cạnh tranh của ngân hàng thương mại

2.1.1. Quan niệm về cạnh tranh của ngân hàng thương mại

Qua những nội dung nghiên cứu, phân tích và trình bày trong chương 1, luận án xin đưa ra quan điểm riêng về cạnh tranh của ngân hàng thương mại là sự ganh đua giữa các ngân hàng thương mại về sản phẩm dịch vụ cung ứng để tồn tại và phát triển mở rộng thêm thị phần, nâng cao uy tín và lợi thế của ngân hàng trên thương trường nhằm mục tiêu gia tăng thêm nhiều lợi nhuận.

Trong cạnh tranh sẽ phát sinh ra người có khả năng cạnh tranh mạnh hay yếu, sản phẩm có khả năng cạnh tranh mạnh hay yếu. Để có thể chiến thắng trong cạnh tranh thì các chủ thể cần phải có khả năng cạnh tranh (sức cạnh tranh hay năng lực cạnh tranh). Để có khả năng cạnh tranh, các chủ thể phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường do đó không nằm ngoài những nội dung nói trên về cạnh tranh.

2.1.2. Các loại hình cạnh tranh của ngân hàng thương mại

Có nhiều tiêu thức được sử dụng làm căn cứ để phân loại cạnh tranh. Trong đó phổ biến thường dựa vào chủ thể tham gia thị trường, mức độ, tính chất cạnh tranh trên thị trường và phạm vi ngành.

Căn cứ các chủ thể tham gia trên thị trường cạnh tranh được chia làm 3 loại:

- Cạnh tranh giữa ngân hàng và các định chế tài chính phi ngân hàng: Định chế tài chính phi ngân hàng bao gồm các công ty tài chính và cho thuê tài chính, quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ, công ty chứng khoán và bảo hiểm,… là các tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ, được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thương xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn và làm dịch vụ thanh toán. Như vậy sự canh tranh ở đây đơn thuần chỉ là cạnh tranh về hoạt động cho vay, tuy nhiên các định chế tài chính phi ngân hàng không thể đủ sức cạnh tranh vì phạm vi hoạt động đã giới hạn hơn ngân hàng rất nhiều.

- Cạnh tranh giữa các ngân hàng trong nước và các ngân hàng nước ngoài: Thực


tế từ khi mở cửa thị trường tài chính đến nay thì sự cạnh tranh này mới phát sinh. Ban đầu, nhóm các NHNNg thường lựa chọn phục vụ cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt nam và tìm kiếm thị trường bán lẻ nội địa nhiều hơn (cho vay tiêu dùng, cho vay thẻ,…), thị phần thậm chí còn vượt hẳn so với các ngân hàng thương mại trong nước. Quy trình thực hiện rất bài bản và chuyên nghiệp, hoạt động kinh doanh hiệu quả và ít rủi ro hơn. Tuy nhiên, ngoài thị trường bán lẻ thì NHNNg không cạnh tranh được ở các hoạt động cho vay khác cũng như huy động vốn và cung cấp các dịch vụ thanh toán cho các doanh nghiệp trong nước.

- Cạnh tranh giữa các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước và các NHTMCP: Đây là cuộc cạnh tranh chủ yếu trên thị trường với tính gay go và khốc liệt, có ý nghĩa sống còn đối với các ngân hàng nhằm chiếm lĩnh thị phần, thu hút khách hàng và kết quả là sản phẩm dịch vụ gia tăng về chất lượng, tiện ích hơn nhưng giá cả lại thấp hơn và có lợi cho khách hàng hơn. Ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước có lợi thế về vốn, thường được thành lập trước các NHTMCP nên có quy mô hoạt động và mạng lưới rộng lớn, hệ thống khách hàng nhiều và đa dạng. Tuy nhiên kể từ khi hệ thống NHTMCP được thành lập mới và chuyển đổi từ ngân hàng nông thông lên thì sự cạnh tranh là rõ rệt.

Căn cứ vào hình thái và tính chất của cạnh tranh trên thị trường, cạnh tranh được chia làm hai loại:

- Cạnh tranh hoàn hảo: Là loại hình cạnh tranh có vô số ngân hàng phục vụ, khách hàng độc lập với nhau, sản phẩm dịch vụ đồng nhất, thông tin đầy đủ và không có rào cản qui định. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, ngân hàng thương mại là người chấp nhận giá tức là hoàn toàn không có sức mạnh trên thị trường, mọi sản phẩm dịch vụ đều có thể bán hết ở mức giá hiện hành trên thị trường. Vì vậy, ngân hàng không thể bán được sản phẩm dịch vụ ở mức giá cao hơn vì các đối thủ của họ sẽ bán các sản phẩm dịch vụ cùng loại ở mức giá trên thị trường cho người tiêu dùng.

- Cạnh tranh không hoàn hảo: Bao gồm cạnh tranh mang tính độc quyền và độc quyền tập đoàn.

Cạnh tranh mang tính độc quyền là thị trường trong đó có nhiều ngân hàng bán những sản phẩm dịch vụ tương tự (thay thế được cho nhau) nhưng được phân biệt khác nhau. Các ngân hàng cạnh tranh với nhau bằng việc bán sản phẩm dịch vụ khác nhau về nhãn hiệu, tiện ích, các điều kiện dịch vụ đi kèm, chất lượng và danh tiếng; mỗi


ngân hàng là người sản xuất duy nhất với sản phẩm dịch vụ của mình; hình thức cạnh tranh chủ yếu là thông qua thương hiệu và nhãn mác.

Cạnh tranh mang tính độc quyền tập đoàn: Khi đó thị trường chỉ có vài ngân hàng bán những sản phẩm đồng nhất (độc quyền tập đoàn thuần tuý) hoặc phân biệt (độc quyền tập đoàn phân biệt). Đặc điểm của độc quyền tập đoàn là chỉ có ít ngân hàng cạnh tranh trực tiếp, các ngân hàng phụ thuộc chặt chẽ, mỗi ngân hàng khi ra quyết định phải cân nhắc cẩn thận xem hành động của mình ảnh hưởng như thế nào tới đối thủ cạnh tranh và sẽ phải ứng xử như thế nào?

Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế có hai loại cạnh tranh:

- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp, giữa các NHTM trong cùng một ngành, cùng sản xuất, tiêu thụ một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó, trong đó các chủ doanh nghiệp, chủ ngân hàng tìm mọi cách để thôn tính lẫn nhau, giành giật khách hàng về phía mình, chiếm lĩnh thị trường. Biện pháp cạnh tranh của hình thức này chủ yếu là cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, giá trị cá biệt (giá trị xã hội), thu lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả cạnh tranh trong nội bộ ngành là làm cho kỹ thuật phát triển, điều kiện sản xuất trong một ngành thay đổi, giá trị hàng hoá được xác định lại, tỷ suất lợi nhuận giảm xuống và doanh nghiệp nào chiến thắng sẽ mở rộng được phạm vi hoạt động, doanh nghiệp thua sẽ mất thị phần, thu hẹp phạm vi hoạt động, thậm chí dẫn tới phá sản.

- Cạnh tranh giữa các ngành: Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các NHTM trong ngành kinh tế khác nhau nhằm mục đích đầu tư có lợi hơn. Biện pháp cạnh tranh của hình thức này là chuyển dịch vốn từ ngành ít lợi nhuận sang ngành có nhiều lợi nhuận hơn. Cạnh tranh giữa các ngành sẽ đem lại kết quả là các doanh nghiệp, các NHTM ở các ngành khác nhau với cùng một số vốn bỏ ra chỉ thu được lợi nhuận như nhau, tức là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân cho tất cả các ngành.

2.1.3. Đặc điểm cạnh tranh ngân hàng

Đặc điểm chung của cạnh tranh ngân hàng trong lĩnh vực dịch vụ:

- Do sản phẩm dịch vụ có tính vô hình nên khó có thể cố định sức mạnh cạnh tranh vào hình thái vật chất của sản phẩm. Người mua sản phẩm dịch vụ thường không nhận biết được đặc tính của sản phẩm bằng cách đo lường các giá trị sử dụng của nó.


Ngược lại, quá trình sản xuất dịch vụ cũng chính là quá trình sử dụng dịch vụ nên người cung ứng dịch vụ không thể chờ sản xuất xong mới đem sản phẩm đi quảng bá, mà phải quảng cáo trước khi sản xuất, trong quá trình sản xuất và sau khi khách hàng đã sử dụng dịch vụ. Với sản phẩm vô hình, người sản xuất phải đem cả quá trình sản xuất ra cạnh tranh, hơn nữa quá trình sản xuất đó có sự tham gia của khách hàng nên khách hàng cảm nhận được sự hợp lý hay không hợp lý của quá trình sản xuất. Ngoài ra nhân viên bán hàng chính là nhân viên sản xuất dịch vụ nên thái độ của những người này với khách hàng cũng ảnh hưởng đến cạnh tranh. Phương thức sản xuất, môi trường sản xuất, phương tiện, công cụ sản xuất cũng tham gia trực tiếp vào cạnh tranh.

- Sản phẩm dịch vụ có đặc tính vừa sản xuất, vừa sử dụng, người tiêu dùng không có thời gian đo, đếm chất lượng, không có điều kiện sử dụng dịch vụ một cách độc lập, hoàn toàn theo phong cách riêng của họ, mà phụ thuộc sâu sắc vào môi trường, cảnh quan, không khí do người sản xuất tạo ra. Chính vì vậy các yếu tố mang tính tâm lý, cảm nhận của khách hàng như thuận tiện, thân thiện, tin cậy, thoải mái,…làm nên sức mạnh cạnh tranh của nhà cung ứng dịch vụ.

Nói tóm lại, hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, các ngân hàng thương mại phải mang quy trình công nghệ, quy trình sản xuất cũng như các yếu tố sản xuất tham gia cạnh tranh trên thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Cạnh tranh ngân hàng có đặc điểm riêng:

- Ngân hàng là ngành kinh doanh có điều kiện (đáp ứng một số điều kiện cao với số lượng cấp phép hạn chế) do tác động to lớn của nó đến nền kinh tế, đặc biệt là tính hệ thống cao và tương tác có tính dây chuyền. Các NHTM hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đặc biệt, đó là kinh doanh tiền tệ. Đây là một lĩnh vực hoạt động đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ của cơ quan quản lý (NHTW, Chính phủ…) thông qua Luật, quy định và các điều kiện ràng buộc khác nhau. Bởi lẽ NHTM huy động tiền nhàn rỗi chủ yếu từ dân cư, thông qua hoạt động và chức năng của mình (chủ yếu là chức năng tạo tiền) NHTM sẽ thực hiện cho vay, thanh toán… đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nếu không quản lý và kiểm tra giám sát chặt chẽ các hoạt động của NHTM sẽ dẫn đến tình trạng “phá rào” dẫn đến đổ vỡ hoặc phá sản ngân hàng. Điều này không chỉ hệ lụy với riêng từng ngân hàng mà còn cả hệ thống thậm chí kéo theo hệ lụy đến cả nền kinh tế. Mặc dù các NHTM luôn cạnh tranh gay gắt với nhau để mở rộng thị phần, tranh thủ


khách hàng, nhưng trong tác nghiệp chúng phải hợp tác với nhau để thực thi các chức năng có tính hệ thống như thanh toán bù trừ, cung cấp thông tin khách hàng cho nhau để giảm thiểu rủi ro khách hàng gian lận, ngăn chặn tác động dây chuyền làm sụp đổ hệ thống,…Nói cách khác, ngân hàng thương mại cạnh tranh với nhau trong mối quan hệ biện chứng của các bộ phận hợp thành hệ thống. NHTM nào cũng phải bảo vệ tính ổn định, minh bạch và giảm thiểu rủi ro của cả hệ thống, nếu không, sự sụp đổ của ngân hàng này sẽ kéo theo ngân hàng khác sụp đổ. Để hỗ trợ cho nhau, đôi khi các ngân hàng thương mại phải cứu nguy cho nhau chứ không phải tiêu diệt lẫn nhau.

- Sản phẩm có rất ít sự khác biệt: Hàng hóa mà ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng là quyền sử dụng tiền theo thời gian. Phạm vi của sự khác biệt không nằm ở tiền mà ở quy trình, tiêu chuẩn, thái độ và phương thức cung cấp, huy động tiền, ở khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng, không về chất lượng, mà thuần túy về số lượng và độ dài thời gian sử dụng tiền. Nói cách khác, cạnh tranh ngân hàng vừa dựa vào chất lượng sản phẩm dịch vụ tiện ích, an toàn,…cung cấp cho khách hàng, dựa vào phương thức, số lượng cung cấp nhiều hơn và thái độ phục vụ gần gũi, thân thiện, tin tưởng, phong cách giao dịch chuyên nghiệp và thân thiện.

- Cạnh tranh giá cả trong hoạt động ngân hàng cũng khá hạn chế. Bởi vì, lãi suất đầu vào và đầu ra của các ngân hàng dễ bị san phẳng, thậm chí còn chịu sự điều tiết của chính phủ. Chính vì vậy, các ngân hàng thường cạnh tranh về quy mô cung ứng và chi phí cung ứng hơn là giá bán hàng hóa, cạnh tranh dựa vào uy tín, thương hiệu hơn là sự khác biệt sản phẩm.

- Cạnh tranh của ngân hàng thương mại chịu sự ảnh hưởng nhạy cảm của thị trường tài chính quốc tế. Cùng với quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế dòng vốn luân chuyển giữa các quốc gia ngày càng mạnh mẽ, các ngân hàng thương mại của bất kỳ quốc gia nào cũng phải liên kết với các ngân hàng thương mại ngoài nước để thực hiện trọn vẹn các dịch vụ của mình. Khi liên kết ngân hàng thương mại quốc gia phải tuân thủ các qui định và tiêu chuẩn quốc tế, chịu sự tác động của biến động thị trường tài chính quốc tế. Mỗi sự biến động về tỷ giá, lãi suất, điều kiện kinh tế cũng như chính sách tiền tệ của các trung tâm kinh tế quốc tế đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại trong nước. Việc tuân thủ những chuẩn mực quốc tế buộc các ngân hàng thương mại phải điều chỉnh hành vi cạnh tranh.


Ngoài ra cùng với xu hướng tự do hóa thương mại, để phục vụ cho yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, theo nguyên tắc hội nhập, các nước buộc phải tự do hóa trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng khiến cạnh tranh quốc gia trở thành cạnh tranh quốc tế ngay trên sân nhà. Một trong những biểu hiện tự do hóa tài chính đó là xóa bỏ rào cản phi kinh tế trong việc di chuyển vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác. Sự tự do di chuyển vốn như vậy làm cho các ngân hàng thương mại ngày càng lệ thuộc hơn vào thị trường tài chính quốc tế.

- Cạnh tranh ngân hàng dựa rất lớn vào yếu tố tâm lý như sự tín nhiệm, kỳ vọng của người gửi tiền: Kinh doanh ngành ngân hàng có tính rủi ro rất cao. Những yếu tố ngoài ngân hàng như khó khăn của khách hàng, thiên tai, bất ổn trên thị trường, các yếu tố của bản thân ngân hàng như lòng tham lam, quá mạo hiểm của nhân viên kinh doanh,…đều khiến ngân hàng đi đến chỗ phá sản, làm mất tiền của người gửi. Do tình trạng thông tin bất đối xứng giữa ngân hàng và khách hàng khiến khách hàng không thể kiểm soát được tình hình kinh doanh của ngân hàng. Chính vì vậy, bất cứ tin đồn nào khiến người gửi tiền mất lòng tin vào hệ thống ngân hàng nói chung, ngân hàng thương mại cụ thể nói riêng, họ liền ồ ạt rút tiền khỏi ngân hàng khiến ngân hàng gặp khó khăn. Lợi dụng đặc tính này, giới lãnh đạo ngân hàng vô đạo đức có thể cạnh tranh không lành mạnh bằng cách phao tin đồn,…

- Chủ thể cạnh tranh đa dạng: Trong điều kiện kinh tế thị trường hội nhập ngày nay có nhiều chủ thể phi ngân hàng tham gia cạnh tranh trong kinh doanh hoạt động ngân hàng. Các chủ thể phi ngân hàng bao gồm: công ty tài chính, các quỹ tín dụng, các hình thái tiết kiệm như tiết kiệm bưu điện, điện lực, dầu khí, hóa chất, xi măng,…các doanh nghiệp bảo hiểm, các doanh nghiệp sản xuất (cung cấp tín dụng thương mại,…). Các định chế tài chính phi ngân hàng, mặc dù không phải là ngân hàng, không được phép kinh doanh toàn bộ hoạt động như một ngân hàng, nhưng được phép kinh doanh một hoặc một số hoạt động mang tính ngân hàng. Các định chế này được thành lập trên cơ sở khai thác lợi thế tiềm năng của họ thông qua quá trình hoạt động. Những hoạt động ngân hàng có tính phụ thêm trên cơ sở bắt nguồn từ hoạt động chính, hoặc được thành lập từ ban đầu do không đủ điều kiện để thành lập ngân hàng mà chỉ được phép hoạt động một vài sản phẩm ngân hàng, chủ thể này có thể sẽ là các ngân hàng tiềm năng trong tương lai khi đủ điều kiện.


Các chủ thể cạnh tranh với các ngân hàng thương mại trong điều kiện hội nhập không chỉ là các ngân hàng thương mại, các định chế tài chính phi ngân hàng trong nước mà còn cả các ngân hàng thương mại, các định chế tài chính phi ngân hàng đến từ một hay nhiều quốc gia khác trên thế giới. Đối với các nước đang phát triển, những đối thủ đến từ các quốc gia trên thế giới là những ngân hàng, tập đoàn tài chính có tiềm lực tài chính mạnh, có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động ngân hàng trong một nền kinh tế thị trường, đe dọa xâm chiếm thị phần của các ngân hàng thương mại trong nước. Mặt khác quá trình hội nhập cũng hình thành nên các tổ chức tài chính khu vực quốc tế. Các tổ chức này cũng có thể là những đối tác tham gia cạnh tranh với các ngân hàng thương mại trong nước.

Do đối tượng kinh doanh chủ yếu là các dịch vụ tài chính, liên quan đến tiền tệ và hoạt động ngân hàng mang tính hệ thống, hơn nữa các hoạt động ngân hàng có tính liên kết chặt chẽ cao dẫn đến sự cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng có một số đặc điểm khác biệt so với cạnh tranh trong các lĩnh vực khác đó là:

- Cạnh tranh trong điều kiện chịu sự chi phối mạnh mẽ của các chính sách tài chính tiền tệ của Nhà nước, chịu sự tác động không nhỏ của các biến động kinh tế vĩ mô nhất là lạm phát, lãi suất, tăng trưởng kinh tế.

- Sự phá sản của một ngân hàng dẫn đến phản ứng lan truyền và tai họa cho nền kinh tế thậm chí cả một khu vực (khủng hoảng tiền tệ ở các nước Đông Nam Á năm 1997 và Mêhicô, Brazin; khủng hoảng và đổ vỡ của các định chế tài chính tại Mỹ mang tên Lehman Brothers và Merrill Lynch, đã cho thấy điều đó). Do vậy, cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng không phải là cuộc chiến một mất một còn giữa các ngân hàng.

- Đặc điểm của sản phẩm ngân hàng, mà biểu hiện rõ nhất trong thanh toán chẳng hạn, quá trình cung cấp sản phẩm không chỉ có do một ngân hàng thực hiện mà phải thông qua ngân hàng khác, do vậy mặc dù cạnh tranh nhưng các ngân hàng vẫn phải có sự liên kết, hợp tác với nhau để hoạt động trong quá trình cung ứng sản phẩm.

- Sự lớn mạnh của đối thủ cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng nhưng không đồng nghĩa với nhất thiết triệt hạ đối thủ mà thậm chí sự lớn mạnh của đối thủ lại là tạo điều kiện để cho ngân hàng phát triển. Ví dụ như sự phát triển của các tổ chức bảo hiểm sẽ tạo nguồn tiền gửi quan trọng cho các ngân hàng.

Xem tất cả 190 trang.

Ngày đăng: 09/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí