phản ánh rất rõ khuynh hướng đào tạo cho toàn hệ thống (tức là nhất thiết phải có cở sở rộng hơn và ít chuyên môn hoá đi) hơn là đào tạo trên cơ sở cơ quan (chuyên môn hoá hơn và có lẽ mang bản chất đào tạo “qua công việc”). Với phương thức đào tạo này, cho phép mức độ chuyển dịch đáng kể giữa các cơ quan, ban ngành căn cứ trên một hệ thống trình độ chuyên môn chính thức chung được Chính phủ ấn định.
Singapore tự đánh giá là một đất nước hẹp, thiếu tài nguyên. Vì vậy, Singapore xác định con người là yếu tố then chốt để phát triển quốc gia. Singapore đã xác định hoạt động của cơ quan, công chức phải theo định hướng đối tượng phục vụ là khách hàng với mục tiêu làm vừa lòng khách. Vì vậy, các công chức Nhà nước Singapore đều được bình đẳng trong đào tạo và mỗi công chức mỗi năm phải được đào tạo tối thiểu 100 giờ. Trọng tâm đào tạo với 60% nội dung đào tạo gắn với công việc trực tiếp của công chức và 40% đào tạo tiếp tục nhằm tạo khả năng bổ trợ cho công chức để giúp cho họ ngày càng nhạy bén, nhanh chóng thích nghi với mọi hoàn cảnh, mọi sự thay đổi.
Chính sách đào tạo cán bộ được Chính phủ Malaysia đặc biệt chú trọng, với phương châm “đối với quốc gia, không gì quan trọng hơn là nguồn nhân lực”. Để nền kinh tế Malaysia ngang tầm quốc tế thì trước hết công tác đào tạo cán bộ phải ngang tầm quốc tế. Hiện nay, công chức trong bộ máy quản lý của Malaysia chiếm 5% tổng dân số. Việc đào tạo bộ máy hành chính nhằm thực hiện các chính sách phát triển của xã hội. Trước đây đội ngũ công chức được đào tạo theo hướng nhanh chóng hoàn thiện bộ máy hành chính đều khắp để thực hiện chính sách chung của Malaysia là thu hút đầu tư nước ngoài và mở rộng thị trường xuất khẩu. Ngày nay thực hiện chính sách “cả nước Malaysia là một doanh nghiệp” nên đội ngũ công chức được đào tạo và đào tạo lại theo hướng chuyên sâu, trình độ cao hơn, chuyên môn hoá hơn để bộ máy hành chính năng động, hoạt động hiệu quả, thiết thực và kinh tế như một doanh nghiệp tư nhân.
II. Những cơ hội và thách thức chủ yếu đối với các doanh nghiệp xuất khẩu khi Việt Nam gia nhập WTO và định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trong tình hình mới
1. Cơ hội
- Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được đối xử tối huệ quốc vô điều kiện, thuế nhập khẩu vào các nước cũng là thành viên WTO được giảm đáng kể, đồng thời các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng cơ chế tranh chấp thương mại bình đẳng với cá nước thành viên khi xảy ra tranh chấp, được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập - GSP vì Việt Nam là nước đang phát triển.
- Hàng hoá của các doanh nghiệp sẽ có điều kiện thâm nhập mở rộng ra thị trường nước ngoài, nhất là những thị trường có sức mua lớn như thị trường Mỹ, Canada, Trung Quốc, thị trường Tây Âu ... tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có hiệu quả hơn trong phân công lao động quốc tế, giúp sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn lực (do nguồn lực xã hội chuyển từ những ngành cạnh tranh chủ yếu hiệu quả thấp sang các ngành có hiệu quả cao hơn).
- Các doanh nghiệp có điều kiện và cơ hội tiếp cận với công nghệ thông tin, tín dụng và các dịch vụ khác tiên tiến hơn trên thế giới.
Có thể bạn quan tâm!
- Trình Độ Công Nghệ Và Khả Năng Ứng Dụng Công Nghệ
- Cơ Cấu Kim Ngạch Xuất Khẩu Chè Sang Các Thị Trường Giai Đoạn 2003 - 2006 Đơn Vị Tính: %
- Đánh Giá Năng Lực Cạnh Tranh Của Các Doanh Nghiệp Xuất Khẩu Chè Việt Nam
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam - 12
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
- Sẽ làm tăng sức hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài, bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, giúp doanh nghiệp có điều kiện phát huy tốt hơn nữa lợi thế nguồn nhân lực có trình độ cao của chính doanh nghiệp và cho cả Việt Nam nói chung, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tạo ra nhiều hàng hoá xuất khẩu và thúc đẩy thị trường phát triển.
- Chúng ta sẽ có điều kiện và cơ hội thuận lợi trong việc tiếp nhận chuyển giao và phát triển năng lực công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới, tham gia nhiều hơn vào các chương trình hợp tác khoa học công nghệ song phương và đa phương, tăng thêm các nguồn hỗ trợ kỹ thuật, tăng năng lực cạnh tranh khi gia nhập các chế định kinh tế quốc tế với tư cách là nước đang phát triển.
2. Thách thức
- Cạnh tranh sẽ gay gắt bởi trên thị trường không chỉ có các đối thủ cạnh tranh là những doanh nghiệp trong nước mà còn có các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế
ngoài nước với chủng loại hàng hoá, dịch vụ phong phú, chất lượng cao và giá cả cạnh tranh.
- Doanh nghiệp trong nước khi xuất khẩu hàng hoá dịch vụ ra nước ngoài sẽ gặp nhiều hàng rào kỹ thuật cũng như cần phải đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế. Những tiêu chuẩn và hàng rào này khi gia nhập WTO các doanh nghiệp sẽ phải nghiêm túc hơn trong thực hiện thì mới có được sức cạnh tranh với các loại hàng hoá nước ngoài.
- Hoạt động của các doanh nghiệp được điều chỉnh theo hệ thống pháp luật của WTO, điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao tính sáng tạo và khả năng thích nghi của mình với những thông lệ quốc tế, với những hoạt động kinh tế mang tính toàn cầu; đội ngũ cán bộ các doanh nghiệp phải thực sự tinh thông về chuyên môn, nghiệp vụ, giỏi về ngoại ngữ và năng lực quản lý, hiểu rõ phong tục tập quán của đối tác.
- Các chính sách vĩ mô của chính phủ phải hướng vào mở cửa thị trường nội địa, mở cửa các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, viên thông, tư vấn,... Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải đủ sức chạy đua với các công cuộc cạnh tranh gay gắt thị trường trên tất cả các mặt, công nghệ, chất lượng, giá cả, tiếp thị, việc làm .... Trong quá trình này phải chấp nhận cả sự phá sản của những doanh nghiệp không đủ sức cạnh tranh trên thị trường, kể cả thị trường trong nước.
- Khi gia nhập WTO đồng nghĩa các doanh nghiệp trong nước không được hưởng các khoản trợ cấp và ưu đãi nữa, do đó chi phí sản xuất của các doanh nghiệp tăng lên, sức cạnh tranh bằng giá của doanh nghiệp bị giảm xuống.
- Hiện nay, nguồn nhân lực của các doanh nghiệp được đánh giá là dồi dào nhưng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thật sự không nhiều, chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
- Tích cực thu hút vốn đầu tư cả ở trong nước và ngoài nước để phát triển qui mô doanh nghiệp, thực hiện các biện pháp liên minh liên kết, sát nhập các doanh nghiệp nhỏ lại với nhau để phát triển qui mô doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh xét về mặt qui mô doanh nghiệp của doanh nghiệp xuất khẩu nước ta trên trường quốc tế.
- Đầu tư phát triển nguồn nhân lực ở các doanh nghiệp xuất khẩu, nâng cao chất lượng lao động ở cả lĩnh vực quản lí lẫn sản xuất...;kết hợp với thế mạnh vốn có của lao động nước ta là có số lượng dồi dào, cần cù, dễ đào tạo... để từng bước đưa nhân lực lên làm một trong các công cụ cạnh tranh hiệu quả của các doanh nghiệp nước ta.
- Tích cực tham gia các dự án, các chương trình khoa học đa phương và song phương, thực hiện chuyển giao công nghệ tiên tiến với các quốc gia phát triển trên thế giới nhằm từng bước nâng cao trình độ công nghệ của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất cho xuất khẩu. Các doanh nghiệp xuất khẩu cần có kế hoạch đưa các yếu tố công nghệ thông tin vào doanh nghiệp, xây dựng các chiến lược marketing gắn liền với các ứng dụng thương mại điện tử.
- Tập trung xây dựng các chiến lược sản phẩm hợp lí, đầu tư cho các công tác quản lí chất lượng sản phẩm xuất khẩu để hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam có thể đáp ứng được các yêu cầu của thị trường thế giới.
- Từng bước xây dựng thương hiệu của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, coi thương hiệu như một công cụ cạnh tranh chủ yếu trong tương lai.
III. Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trong giai đoạn hội nhập
1. Nhóm các giải pháp ở tầm vĩ mô
1.1 Hoàn thiện chính sách
Hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô là đòi hỏi khách quan của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập, Đảng và Chính phủ đã nhận thức được vấn đề này và trong thời gian qua đã nỗ lực thực hiện các cam kết cải cách. Để chuẩn bị cho giai đoạn hội nhập thực sự và mạnh mẽ sắp tới, các chủ trương, chính sách lớn đã được thể hiện trong các văn kiện quan trọng như: Nghị quyết đại hội IX, chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010, trên cơ sở các định hướng quan trọng này, các nhà hoạch định chính sách có thể triển khai chính sách, các quy định nhằm xây dựng một chiền lược tổng thể về hội nhập kinh tế với một lộ trình cụ thể để các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn trương sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh, đảm bảo hội nhập có hiệu quả.
Để các chủ trương, chính sách minh bạch, dễ thực hiện, và có hiệu quả tích cực đối với nền kinh tế, chúng ta cần thay đổi tư duy, cách nghĩ, cách làm trong việc hoạch định chính sách, tránh hiện tượng chủ quan duy ý chí như đã từng xảy ra trong thời gian qua. Nhà nước phải chuyển từ kiểm soát, cấp phép trước đây sang tạo khung pháp luật, tạo điều kiện, hướng dẫn giúp đỡ công dân, doanh nghiệp lao động, sản xuất, đóng thuế để xây dựng Tổ quốc.
- Cụ thể là trong quá trình xây dựng chiến lược tổng thể để hội nhập kinh tế, cần tiến hành điều tra, khảo sát, đánh giá sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, của các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, từng địa phương để có biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả và tăng cường khả năng cạnh tranh của toàn nền kinh tế cũng như các địa phương và các doanh nghiệp. Trong chiến lược tổng thể của hội nhập kinh tế, cần đặc biệt bảo đảm sự phát triển của các ngành quan trọng mà nước ta còn yếu kém như tài chính, ngân hàng, viễn thông...
- Xuất phát điểm của Việt Nam là một nước nông nghiệp, cơ cấu nền kinh tế vẫn còn mang nặng cơ cấu của nền kinh tế nông nghiệp. Vì vậy, để hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam phải phát huy lợi thế của một nền kinh tế nông nghiệp. Song nếu chỉ trông chờ vào một nền nông nghiệp năng suất thấp, lao động thủ công, xuất khẩu nông sản ở dạng thô như hiện nay, thì tính cạnh tranh và khả năng thâm nhập thị trường thế giới sẽ khó khăn và kém hiệu quả. Nhà nước cần chú ý đầu tư cho phát triển những ngành có lợi thế, nhất là ngành công nghiệp chế biến nông, lâm hải sản xuất khẩu nhằm khai thác được tiềm năng, cải thiện đời sống nông dân, đảm bảo kinh tế tăng trưởng bền vững.
- Đảm bảo các nguyên tắc: "Minh bạch, nhất quán và dự báo được" khi xây dựng cơ chế chính sách, nhằm đáp ứng với đòi hỏi của sân chơi WTO mà chúng ta vừa chính thức trở thành thành viên.
- Cần có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đảm bảo tính hiệu quả ngay trong những bước đi đầu tiên khi thực hiện các cam kết AFTA và WTO. Xuất phát từ thực trạng phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, cũng như từ vấn đề năng lực cạnh tranh của ngành kinh tế và của doanh nghiệp trong khuôn khổ tự do hóa thương mại khu vực ASEAN và ở phạm vi rộng hơn, cần xây dựng mô hình phát triển kinh tế theo hướng hội nhập
khu vực và hướng tới hội nhập ở phạm vi toàn cầu. Đồng thời, cần xây dựng các chính sách hỗ trợ hoặc hạn chế và xác định các hướng phát triển tầm trung hạn và dài hạn để các doanh nghiệp xây dựng chiến lược phát triển phù hợp.
- Tiếp tục cải thiện chính sách thương mại và đầu tư, đặc biệt là thay đổi chế độ nhập khẩu theo hướng hiện đại hóa và làm tăng tính minh bạch của hệ thống thuế quan và các hàng rào phi thuế quan. Theo đánh giá chung hiện nay, tuy thuế nhập khẩu bình quân gia quyền ở mức thấp, nhưng hệ thống thuế nhập khẩu của Việt Nam vẫn còn phức tạp, độ phân tán cao, các biện pháp phi thuế chưa hoàn chỉnh, chưa đồng bộ... Vì vậy, chính phủ cần thiết lập hệ thống các biện pháp phi quan thuế hoàn chỉnh và đồng bộ cho phép sử dụng linh hoạt và hài hòa với mục tiêu bảo hộ nhưng có kỳ hạn giúp các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, không ngừng tăng sức cạnh tranh ở những lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan trọng trong nền kinh tế. Trong đó có cần nghiên cứu áp dụng các biện pháp phi quan thuế phổ dụng trên thế giới như quy định về kiểm tra hàng hóa xuất, nhập khẩu thuế quan hạn ngạch...
- Cần xây dựng các chế độ đãi ngộ tối huệ quốc, chế độ đãi ngộ quốc gia, chế độ tự vệ và xây dựng qui chế xuất xứ hàng hóa làm cơ sở cho việc phát triển quan hệ thương mại với các quốc gia trong và ngoài khu vực ASEAN. Tiếp tục tính toán và phân bố lại các mức thuế suất theo các nhóm hàng hóa nhập khẩu để giảm độ phân tán của các mức thuế suất; chuyển dần các biện pháp phi quan thuế thành thuế suất tương đương để có thể duy trì mức độ bảo hộ hợp lý cho các lĩnh vực sản xuất quan trong trong nền kinh tế.
- Các giải pháp về chính sách vĩ mô nhằm giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh về quy mô, chúng ta thấy có một số vấn đề đáng quan tâm như sau:
+ Đối với các doanh nghiệp nhà nước (DNNN): cần đẩy nhanh việc thực hiện chương trình chi tiết cải cách DNNN để thúc đẩy các doanh nghiệp này sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, có quy mô và năng lực sản xuất đúng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Chương trình chi tiết cải cách DNNN đã được xây dựng từ năm 1998, trong đó tập trung vào giảm vấn đề giảm thua lỗ, giảm tồn đọng nợ không có khả năng hoàn trả và nâng cao tính cạnh tranh.. Trong đó, các biện pháp cần được chú trọng, như đa dạng hóa sở hữu thông
qua cổ phần hóa và chuyển đổi sở hữu các DNNN; Cải thiện khung pháp lý cho phép thực hiện nhanh việc giải thể các DNNN không có khả năng tồn tại; Cơ cấu lại các doanh nghiệp được nhà nước giữ lại bằng các biện pháp, như định mức trần với mức tăng tín dụng của tất cả các DNNN, tăng thêm quyền và trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của ban giám đốc; Xây dựng hệ thống an ninh xã hội đầy đủ và có hiệu quả để hỗ trợ giải quyết số lao động dôi dư trong các DNNN.
+ Tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân (DNTN). Trong giai đoạn tới, để phát triển mạnh hơn khu vực DNTN cần có sự nhìn nhận về vị trí, vai trò của khu vực tư nhân đúng với thực tế và khả năng của nó đối với nền kinh tế nhằm khuyến khích cho khu vực này phát triển mạnh hơn trong những năm tới, góp phần phát huy mạnh mẽ nội lực từ nền kinh tế Việt Nam. Các giải pháp cụ thể là:
- Tạo môi trường tâm lý xã hội ủng hộ khu vực kinh tế này phát triển.
- Hoàn thiện các cơ chế chính sách theo hướng đảm bảo sự bình đẳng cho sự phát triển kinh tế tư nhân như chính sách thuế, đầu tư, điều kiện và cơ hội tiết kiệm nguồn vốn ngân hàng, chính sách thu nhập và tham gia đóng bảo hiểm xã hội, chính sách đào tạo và khoa học công nghệ.
- Sớm hoàn thiện và ban hành Luật cạnh tranh nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh góp phần nâng cao hiệu quả lao động cả các doanh nghiệp. Như đã phân tích trong chương I, cạnh tranh là quy luật tất yếu trong nền kinh tế thị trường, vì vậy việc tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh là nhằm phát huy những ưu điểm và hạn chế những nhược điểm của họat động cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp làm ăn chân chính, của người tiêu dùng và của cả nền kinh tế.
Theo nghiên cứu của Viện kinh tế Thế giới, để có thể trở thành thành viên của WTO, Việt Nam cần phải sửa đổi khoảng 200 luật “cho phù hợp với thông lệ quốc tế”, nhưng theo tiến độ làm luật của Quốc hội hiện nay thì chúng ta còn cần 20 năm nữa mới hoàn tất được. Vì vậy hoàn thiện cơ chế chính sách là nhóm giải pháp rất quan trọng và phải thực hiện với tốc độ nhanh hơn nữa.
1.2 Hõ trợ doanh nghiệp về tài chính
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, việc hỗ trợ các doanh nghiệp về tài chính là điều hết sức cần thiết bởi chúng ta có điểm xuất phát quá thấp. Tuy
nhiên, chúng ta cần phải thống nhất rằng, với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường, có nhiều thành phần thì phải đảm bảo sự công bằng giữa các doanh nghiệp và chấm dứt ngay cơ chế “xin, cho” với việc cấp phát vốn từ ngân sách. Để làm được điều này các chính sách vĩ mô cần tạo ra những điều kiện để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế dễ dàng tiếp cận với các loại nguồn vốn khác nhau theo đúng cơ chế thị trường. Vì vậy, giải pháp cụ thể ở đây là:
- Tiếp tục cải cách hệ thống ngân hàng để tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Để có thể thu được lợi nhuận từ quá trình tự do hóa thương mại thì cần phải tăng tính linh hoạt của các nguồn lực quan trọng, đặc biệt là vốn giữa các ngành để hỗ trợ tài chính cho các ngành các doanh nghiệp và những sản phẩm có lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh dưới chế độ thương mại tự do. Do đó, hệ thống ngân hàng của Việt Nam cần phải có những cải cách mới trong giai đoạn hội nhập hiện nay, với các nhiệm vụ sau:
+ Cải cách thủ tục thẩm định tín dụng, áp dụng các tiêu chuẩn kế toán được quốc tế thừa nhận, đưa ra các khuyến khích nhằm tăng khả năng sinh lời của vốn tín dụng.
+ Đảm bảo hoạt động ngân hàng thận trọng và an toàn trong khuôn khổ pháp luật quy định, và giám sát.
+ Ban hành các quy chế tạo lòng tin cho khách hàng, cải tiến các dịch vụ của Ngân hàng Thương mại.
+ Nới lỏng việc quản lý ngoại hối; đơn giản hóa hơn nữa các thủ tục thế chấp và chuyển nhượng đất đai.
- Tiếp tục cải cách chính sách tài chính theo hướng phù hợp với các cam kết quốc tế, minh bạnh dễ dự đoán. Đó là việc tiếp tục hoàn thiện các luật thuế và việc triển khai thực hiện các sắc thuế cùng lúc có thể đạt được các mục tiêu tăng thu cho ngân sách, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mới; Và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể tích lũy để mở rộng sản xuất.
- Nhà nuớc thành lập các quĩ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp. Quĩ này đóng vai trò như một tổ chức trung gian giữa ngân hàng với các doanh nghiệp, hỗ trợ cho doanh nghiệp vay vốn để đầu tư cho sản xuất kinh doanh.