Lý Luận Cơ Bản Về Bảo Hiểm Và Bảo Hiểm Nhân Thọ

5. Bố cục của đề tài


Đề tài được kết cấu gồm 3 phần: Phần I: Đặt vấn đề

Phần II: Nội dung nghiên cứu

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.

Chương 2: Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH Đại lý Bảo hiểm Nhân thọ Thiên Hưng – Văn phòng Tổng Đại lý Gencasa Huế 1

Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH Đại lý Bảo hiểm Nhân thọ Thiên Hưng – Văn phòng Tổng Đại lý Gencasa Huế 1.

Phần III: Kết luận và kiến nghị


PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 148 trang tài liệu này.


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO NĂNG

Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH MTV Đại lý Bảo hiểm Nhân thọ Thiên Hưng – Văn phòng Tổng Đại lý Gencasa Huế 1 - 3

LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM NHÂN THỌ


1.1. Cơ sở lý luận


1.1.1. Lý luận cơ bản về bảo hiểm và bảo hiểm nhân thọ


1.1.1.1. Khái quát về bảo hiểm


1.1.1.1.1.Khái niệm về bảo hiểm


Xét về bản chất, bảo hiểm là hoạt động chuyển giao rủi ro và phân tán tổn thất. Các cá nhân, tổ chức chuyển rủi ro của mình sang cho doanh nghiệp bảo hiểm thông qua việc trả một khoản phí nhất định, các doanh nghiệp dựa vào quy luật số đông trong toán học phân tán tổn thất trên diện rộng.

Theo Dennis Kessler: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít.

Theo Monique Gaullier: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê.

Tập đoàn bảo hiểm AIG của Mỹ định nghĩa: Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm.

1.1.1.1.2.Bản chất của bảo hiểm


- Bản chất kinh tế: Bản chất kinh tế của bảo hiểm thể hiện ở chỗ nếu cá nhân

nào đó muốn bảo hiểm cho chính mình thì người đó phải có một lượng vật chất

(tiền tệ) đủ lớn nào đó ngay một lúc hoặc phải tích lũy dần từ trước để khi xảy ra rủi ro sẽ sẵn sàng có khả năng trang trải và bù đắp cho những tổn thất đó. Tuy nhiên, dự trữ của các cá nhân hoặc tổ chức có nhiều hạn chế, bởi vì nếu đòi hỏi phải dự trữ lớn và một thời điểm thì nhiều người không có khả năng, còn nếu tích lũy dần thì khi xảy ra rủi ro sớm hoặc xảy ra nhiều lần thì không đủ trang trải. Vì vậy, nếu có nhiều cá nhân hoặc đơn vị cùng tham gia hoạt động bảo hiểm thì sẽ dễ dàng tạo ra một lượng vật chất lớn đảm bảo đủ trang trải các chi phí cho mọi cá nhân hay tổ chức bị rủi ro. Bên cạnh đó, nếu có nhiều cá nhân hoặc đơn vị tham gia bảo hiểm thì lượng dự trữ vật chất của quỹ bảo hiểm sẽ rất lớn, trong đó lượng tiền nhàn rỗi của quỹ sẽ được dùng vào việc kinh doanh trên các lĩnh vực khác nhau. Ở đây, bảo hiểm thực hiện chức năng kinh doanh dịch vụ vừa nhằm mục đích chi trả, bồi thường các rủi ro vừa tăng quỹ thực hiện kinh doanh bảo hiểm, có lợi nhuận, để tiếp tục phục vụ tốt hơn mọi đối tượng tham gia bảo hiểm.

- Bản chất xã hội của bảo hiểm: Dù đối với mọi cơ quan bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm thương mại, tính kinh doanh đặt lên hàng đầu, nhưng trên phạm vi toàn xã hội bảo hiểm thương mại mang tính xã hội rất cao. Một mặt, nhờ có sự san sẻ rủi ro giữa các cá nhân, đơn vị tham gia bảo hiểm nên nhiều thiệt hại về người và của đã được trợ giúp trang trải, bù đắp làm cho đời sống không bị xáo trộn, sản xuất không bị đình trệ. Mặt khác, tính xã hội còn thể hiện rất rõ trong bảo hiểm xã hội, nhờ có bảo hiểm khi người lao động bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động... thì họ sẽ được bù đắp phần thiếu hụt do nguồn thu nhập của họ bị giảm sút.

1.1.1.2. Bảo hiểm nhân thọ


1.1.1.2.1.Khái niệm bảo hiểm nhân thọ


Theo Khoản 1 - Điều 12 - Luật kinh doanh bảo hiểm về khái niệm bảo hiểm nhân thọ: "Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.

Bảo hiểm nhân thọ là sản phẩm được công ty bảo hiểm cung cấp nhằm bảo vệ người tham gia bảo hiểm trước rủi ro về sức khỏe, tính mạng bằng cách chi trả, bồi thường khi các sự kiện liên bảo hiểm xảy ra.

1.1.1.2.2.Đặc điểm bảo hiểm nhân thọ


a. Đặc điểm chung

Bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng và bảo hiểm nói chung có đặc trưng là ngành

dịch vụ đặc biệt. Nó đặc biệt bởi:

- Sản phẩm của bảo hiểm là sản phẩm vô hình:

Sản phẩm bảo hiểm, về bản chất là một dịch vụ, một lời hứa, một lời cam kết mà công ty bảo hiểm đưa ra với khách hàng. Khách hàng đóng một khoản phí để đổi lấy những cam kết bồi thường hoặc chi trả trong tương lai khi có rủi ro xảy ra.

Khác với sản phẩm vật chất mà người mua có thể tự mình cảm nhận được thông qua các giác quan, người mua sản phẩm bảo hiểm không thể chỉ ra màu sắc, hình dáng, kích thước, mùi vị của sản phẩm. Họ cũng không thể cảm nhận được bằng các giác quan như cầm nắm, sờ mó, ngủi hoặc nếm thử…

Để khắc phục những khó khăn đó, cũng là để củng cố lòng tin của khách hàng, các doanh nghiệp bảo hiểm tìm cách tăng tính hữu hình của sản phẩm: chú ý những lợi ích có liên quan đến dịch vụ như sử dụng những người nổi, có uy tín tuyên truyền dịch vụ; phát triển hệ thống đại lý chuyên nghiệp; xây dựng uy tín của công ty; tăng cường chiêu trò quan trọng của hoạt động marketing. Như vậy, lòng tin và chất lượng dịch vụ khách hàng chính là chìa khóa để bán sản phẩm bảo hiểm.

- Bảo hiểm có chu trình kinh doanh ngược:

Khác với chu trình sản xuất hàng hóa thông thường, khi giá cả được quyết định.

Các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa hữu hình phải bỏ vốn ra trước, mua các máy móc, nguyên vật liệu, thuê nhân công thì mới sản xuất ra sản phẩm và thực hiện quy trình đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng, khi sản phẩm đó bán được doanh nghiệp mới thu tiền về, trong khoản tiền này gồm cả vốn doanh nghiệp bỏ ra và lãi doanh nghiệp nhận được.

Còn doanh nghiệp bảo hiểm không phải bỏ vốn trước, họ nhận phí bảo hiểm trước của người tham gia bảo hiểm đóng góp và thực hiện nghĩa vụ khi xảy ra sự cố đối với người tham gia bảo hiểm. Làm vậy, không thể tính được chính xác hiệu quả của một sản phẩm bảo hiểm vào thời điểm bán sản phẩm.

Thông thường, hợp đồng bảo hiểm được coi là có hiệu lực ngay hoặc khi có sự chấp nhận của người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm đầy đủ theo hợp đồng. Phí bảo hiểm mà khách hàng đóng khi ký hợp đồng chính là giá bán một hợp đồng bảo hiểm.

Đặc điểm này ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đưa loại sản phẩm nào ra thị trường. Nếu một sản phẩm đưa ra được đông đảo người mua thì công ty bảo hiểm sẽ thu về một khoản tổng phí bảo hiểm rất lớn. Khi rủi ro xảy ra cho một số khách hàng nào đó, công ty bảo hiểm có đủ khả năng chi trả mà không bị bội chi. Ngược lại, nếu chỉ có một số ít khách hàng chấp nhận, tổng phí thu được nhỏ bé. Công ty bảo hiểm sẽ dễ rơi vào tình trạng thu không đủ chi nếu như nhóm khách hàng có tỷ lệ rủi ro quá cao trong khoảng thời gian các hợp đồng bảo hiểm còn có hiệu lực.

- Người tham gia bảo hiểm không muốn sự kiện bảo hiểm xảy ra:

Người mua bảo hiểm không mong muốn có sự kiện rủi ro xảy ra để được nhận quyền lợi bảo hiểm dù rằng quyền lợi đó có thể nhiều hơn gấp bội lần so với số phí phải đóng. Quá trình mua sản phẩm bảo hiểm chịu sự chi phối của các yếu tố tâm lý. Hoặc chi phối bởi những tập tục, quan niệm có thể mang yếu tố tâm linh, nên nói chung người mua không muốn nói đến rủi ro, không muốn thấy cụ thể những hậu quả của rủi ro có thể được bảo hiểm, điểm hình nhất trong bảo hiểm tử vong hay thương tật.

Nhưng ngược lại, người mua coi việc mua một sản phẩm bảo hiểm như một chiếc bùa hộ mệnh, giúp họ và an tâm hơn về mặt tinh thần đồng thời có sự đảm bảo về mặt vật chất khi điều không may xảy ra.

Người bán cũng dễ bị ý nghĩ chiều lòng, thỏa mãn nhu cầu của khách hàng mà thiếu sự cân nhắc cần thiết cho việc lựa chọn và đánh giá những rủi ro có thể đảm nhận.

b. Đặc điểm riêng

Bảo hiểm nhân thọ là một loại nghiệp vụ bảo hiểm cho người được bảo hiểm sống hoặc chết. Chính vì vậy mà bảo hiểm nhân thọ mang những đặc điểm cơ bản sau:

- Thứ nhất, tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe con người không xác định được giá trị.

- Thứ hai, sự kiện bảo hiểm không hoàn toàn gắn liền với rủi ro. Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm.

- Thứ ba, chỉ công ty bảo hiểm nhân thọ mới được cung cấp. Bảo hiểm nhân thọ là bảo hiểm con người đây là thuộc tính cơ bản nhất của bảo hiểm thọ các loại bảo hiểm khác không khác. Ví dụ: bạn tham gia bảo hiểm tính mạng, sức khỏe thì bạn phải đóng phí khi tham gia bảo hiểm. Trong khoản thời gian tham gia bảo hiểm nếu bạn gặp rủi ro như tai nạn thì bạn sẽ được bên bảo hiểm chi trả các chi phí phát sinh trong việc gặp rủi ro này.

- Thứ tư, đây là loại hợp đồng dài hạn và thường mang tính tiết kiệm.

- Thứ năm, bảo hiểm nhân thọ là loại hợp đồng với các điều khoản mẫu nên yêu cầu rất cao về tính linh hoạt và tính minh bạch.

1.1.1.2.3.Vai trò của bảo hiểm nhân thọ


Bảo hiểm nhân thọ là một loại hợp đồng bảo hiểm trong đó doanh nghiệp bảo hiểm cam kết chi trả một khoản tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng nếu chẳng may người được bảo hiểm gặp phải các rủi ro liên quan đến sức khỏe, thân thể, tính mạng với điều kiện bên mua bảo hiểm đóng phí định kỳ đầy đủ theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Mục đích chính của bảo hiểm nhân thọ là bảo vệ con người trước những rủi ro bất ngờ, nhưng bên cạnh đó bảo hiểm nhân thọ còn kết hợp yếu tố tiết kiệm và đầu tư.

- Vai trò đối với bản thân và gia đình

Bảo vệ tài chính của gia đình: Thực tế cho thấy, chi phí khắc phục các rủi ro là một con số không hề nhỏ, đặc biệt các rủi ro liên quan đến bệnh tật, tai nạn,…Lúc này, bảo hiểm nhân thọ sẽ phát huy vai trò của mình, chi trả số tiền bảo hiểm kịp

thời giúp người không may mắn và gia đình bù đắp tổn thất và nhanh chóng vượt qua được khó khăn.

Tạo dựng quỹ tiết kiệm cho tương lai: Nếu khách hàng may mắn không gặp bất cứ rủi ro nào trong thời hạn hợp đồng, sẽ nhận lại quyền lợi đáo hạn. Với khoản tiền nhận được từ quyền lợi này, khách hàng sẽ có một quỹ tích lũy để thực hiện các dự định trong tương lai như cho con đi du học, đầu tư, kinh doanh…

Chuẩn bị tài chính cho hưu trí an toàn: Bảo hiểm nhân thọ sẽ giúp khách hàng có những ngày áp nghỉ dưỡng an nhàn thông qua việc chi trả một khoản tiền bảo hiểm vào mỗi tháng. Số tiền này giúp họ tự do về tài chính, tâm lý thoải mái mà không còn là gánh nặng của con cháu khi về già.

Vai trò đối với xã hội

Huy động nguồn vốn nhàn rỗi: Với mô hình thu phí bảo hiểm trước và chi trả quyền lợi bảo hiểm sau, một nguồn vốn lớn thu được từ phí bảo hiểm đã giúp cho các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư vào các lĩnh vực trái phiếu, cổ phiếu, bất động sản, tiền gửi, góp vốn vào doanh nghiệp.... Khi nguồn vốn được sử dụng hiệu quả và tạo ra dòng luân chuyển nhanh sẽ giúp thúc đẩy kinh tế phát triển.

Góp phần kiểm soát rủi ro, hạn chế tổn thất và đảm bảo an toàn cho nền kinh tế: Bằng cách tham gia bảo hiểm nhân thọ, khách hàng sẽ được tiếp cận với điều kiện khám chữa bệnh tốt hơn, chuẩn bị tài chính để nghỉ hưu an nhàn, cũng như chăm lo kế hoạch trong tương lai. Khi mỗi người trong cộng đồng ý thức hơn về sức khỏe và tài chính của mình thì xã hội được đảm bảo an toàn về con người và nền kinh tế.

Tạo công ăn việc làm cho lao động: Sự phát triển của các công ty bảo hiểm nhân thọ cũng góp phần tạo công việc cho rất nhiều lao động khi liên tục tuyển dụng các đại lý bảo hiểm, nhân viên tư vấn tài chính để phục vụ khách hàng một cách chu đáo nhất.

1.1.1.2.4.Các loại hình bảo hiểm nhân thọ

Dưới nhiều góc độ, bảo hiểm nhân thọ được chia thành các loại khác nhau.

Theo phương thức tham gia có bảo hiểm cá nhân và bảo hiểm nhóm. Theo đối

tượng tham gia có bảo hiểm cho con, bảo hiểm cho người trụ cột và bảo hiểm hưu trí. Theo hình thức hợp đồng có bảo hiểm chính và bảo hiểm bổ trợ. Cụ thể hơn là chia theo phạm vi bảo hiểm, có 7 loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản sau đây:

- Bảo hiểm sinh kỳ: là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm

- Bảo hiểm tử kỳ: là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm chết trong một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.

- Bảo hiểm hỗn hợp: là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp bảo hiểm sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ. Đây là một trong những sản phẩm bảo hiểm chủ lực của các công ty bảo hiểm tại Việt Nam.

- Bảo hiểm trọn đời: là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm chết vào bất kỳ thời điểm nào trong suốt cuộc đời của người đó.

- Bảo hiểm trả tiền định kỳ: là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định; sau thời hạn đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm định kỳ cho người thụ hưởng theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.

- Bảo hiểm liên kết đầu tư: là một loại hình đặc biệt của bảo hiểm nhân thọ, trong đó sau khi trừ đi chi phí quản lý và chi phí trả cho bảo hiểm nhân thọ, phí bảo hiểm được sử dụng để mua các đơn vị đầu tư trong các quỹ liên kết. Đây là loại bảo hiểm nhân thọ có khả năng đáp ứng đồng thời nhu cầu chuyển giao hậu quả tài chính của rủi ro và nhu cầu đầu tư của người mua bảo hiểm. Hai sản phẩm tiêu biểu nhất của dòng sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư là bảo hiểm liên kết chung và bảo hiểm liên kết đơn vị.

- Bảo hiểm hưu trí: Bảo hiểm hưu trí là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm đạt đến độ tuổi xác định được doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.

Xem tất cả 148 trang.

Ngày đăng: 19/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí