thất và kiểm tra lại các điều khoản của hợp đồng thì DNBH thực hiện trách nhiệm bồi thường bảo hiểm cho người được bảo hiểm. Việc bồi thường nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời góp phần làm cho người tham gia bảo hiểm sớm khắc phục được khó khăn, ổn định và phục hồi sản xuất.
b. Hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm
Tái bảo hiểm là việc chuyển rủi ro từ một DNBH sang một công ty tái bảo hiểm nhằm giảm thiểu rủi ro bảo hiểm cho DNBH đó. Kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động kinh doanh trên cơ sở chia sẻ rủi ro giữa các DNBH trên cơ sở hợp đồng bảo hiểm gốc. Thực hiện kinh doanh tái bảo hiểm giúp DNBH phi nhân thọ tăng khả năng chấp nhận bảo hiểm, đồng thời bảo vệ sự ổn định trong kinh doanh khi có những sai lệch về xác suất rủi ro, giá trị tổn thất thực tế so với dự đoán dựa trên những số liệu thống kê trong quá khứ. Hoạt động tái bảo hiểm của các DNBH phi nhân thọ bao gồm hoạt động nhận tái bảo hiểm và hoạt động nhượng tái bảo hiểm.
Hoạt động nhận tái bảo hiểm là việc một DNBH phi nhân thọ nhận bảo hiểm cho một phần rủi ro của một DNBH phi nhân thọ khác trong một hợp đồng bảo hiểm gốc có giá trị lớn vì mục đích san sẻ gánh nặng đồng thời tăng nguồn thu từ phí bảo hiểm. Trách nhiệm của DNBH khi nhận tái bảo hiểm được cụ thể hoá trong hợp đồng tái bảo hiểm, dựa trên những thoả thuận của hợp đồng bảo hiểm gốc. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, DNBH nhận tái bảo hiểm phải thực hiện nghĩa vụ chi trả bồi thường cho DNBH gốc theo đúng thoả thuận.
Hoạt động nhượng tái bảo hiểm là việc một DNBH bảo hiểm cho chính mình khi chuyển một phần trách nhiệm đã cam kết với khách hàng cho một hoặc nhiều DNBH khác. Khi thực hiện hoạt động nhượng tái bảo hiểm, DNBH phải chuyển một phần phí bảo hiểm cho DN nhận tái bảo hiểm theo những thoả thuận của hợp đồng tái bảo hiểm. Đồng thời, doanh nghiệp nhượng tái bảo hiểm được nhận hoa hồng tái bảo hiểm từ các doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm.
c. Hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư là một hoạt động quan trọng của DNBH phi nhân thọ nhằm tăng cường sức mạnh tài chính, hỗ trợ hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Với đặc thù kinh doanh là thu phí trước và chi trả bồi thường sau nên các DNBH phi nhân thọ có một lượng vốn nhàn rỗi để đem đầu tư trở lại nền kinh tế. Nguồn vốn đầu tư của DNBH phi nhân thọ bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu, các loại quỹ dự phòng nghiệp vụ mà DNBH đã trích lập từ nguồn phí bảo hiểm theo yêu cầu nhằm đảm bảo quyền lợi cho người được bảo hiểm. Thực chất nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư trong DNBH phi nhân thọ chính là những khoản nợ phải trả để thực hiện cam kết bồi thường của DNBH đối với người được bảo hiểm trong tương lai.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường bảo hiểm, hoạt động đầu tư tài chính được coi là hoạt động không chỉ góp phần giảm phí bảo hiểm mà còn tạo ra thu nhập bù đắp những khoản chi phí lớn của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư luôn tiềm ẩn rủi ro ảnh hưởng đến khả năng thanh toán
Có thể bạn quan tâm!
- Các Nghiên Cứu Về Quản Lý Nhà Nước Đối Với Doanh Nghiệp Bảo Hiểm Và Thị Trường Bảo Hiểm
- Ma Trận Tầm Quan Trọng - Mức Độ Thực Hiện (Importance Performance Analysis) Với Các Chiến Lược Tương Ứng
- Doanh Nghiệp Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ Và Hoạt Động Kinh Doanh Của Doanh Nghiệp Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ
- Lựa Chọn Mô Hình Và Tổ Chức Bộ Máy Quản Lý Nhà Nước Đối Với Hoạt Động Kinh Doanh Của Doanh Nghiệp Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ
- Kinh Nghiệm Quản Lý Nhà Nước Về Hoạt Động Kinh Doanh Của Doanh Nghiệp Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ Của Một Số Quốc Gia
- Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam - 9
Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.
nếu DNBH phi nhân thọ không tuân thủ những quy định hoặc không đặt ra những quy định buộc những người có liên quan phải tuân thủ. Những quyết định về phân bổ vốn cho các danh mục đầu tư, việc quản lý hoạt động đầu tư của chính DNBH sai sót, lệch lạc khiến cơ cấu danh mục đầu tư không thích hợp, đánh giá quá cao tài sản hay tập trung quá mức vào loại khoản mục đầu tư nào đó đều là nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động đầu tư của DNBH. Nếu rủi ro đầu tư xảy ra thì khả năng không thực hiện được nghĩa vụ đối với khách hàng là rất lớn.
2.2 QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
2.2.1 Khái niệm, mục tiêu của quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
2.2.1.1 Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước. Đó là hoạt động quản lý gắn liền với hệ thống các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước - bộ phận quan trọng của quyền lực chính trị trong xã hội, có tính chất cưỡng chế đơn phương đối với xã hội.
Như vậy, quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nước trong từng thời kỳ. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, chỉ bao gồm hoạt động hành pháp để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động từ ban hành chiến lược, quy hoạch, chính sách pháp luật đến việc chỉ đạo, tổ chức hoạt động của đối tượng bị quản lý và kiểm soát đối với đối tượng quản lý [58].
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, NCS tiếp cận quản lý nhà nước theo nghĩa rộng: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ là toàn bộ các hoạt động quản lý của nhà nước từ ban hành chính sách, tổ chức thực hiện chính sách và kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của DNBH phi nhân thọ bằng phương thức, quy trình quản lý nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh của DNBH phi nhân thọ diễn ra theo mục tiêu quản lý”.
Chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của các DNBH phi nhân thọ được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước, được Nhà nước uỷ quyền, trao quyền theo quy định của pháp luật; gồm cơ quan quản lý, giám sát bảo hiểm của Nhà nước, các cơ quan nhà nước có liên quan như thanh tra, cơ quan công an, điều tra, tố tụng,…
2.2.1.2 Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
- Bảo vệ quyền lợi cho người được bảo hiểm (người tiêu dùng)
QLNN đối với hoạt động kinh doanh của các DNBH phi nhân thọ có ý nghĩa quan trọng đối với hàng triệu các hợp đồng bảo hiểm mà DNBH cung cấp cho
khách hàng. Bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng và bảo hiểm nói chung là sản phẩm vô hình mà người tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm trước và chỉ đánh giá được toàn bộ chất lượng sản phẩm sau khi rủi ro thực sự xảy ra. Do đó, để đảm bảo quyền lợi cho bên mua bảo hiểm cần có sự quản lý giám sát cả quá trình kinh doanh bảo hiểm của các DNBH phi nhân thọ từ khâu thiết kế sản phẩm đến khâu phân phối sản phẩm, từ trích lập và sử dụng các quỹ dự phòng nghiệp vụ để bồi thường cho những rủi ro có thể phát sinh.
Bên cạnh đó, những đại lý bảo hiểm hay môi giới bảo hiểm có thể giới thiệu đến khách hàng những thông tin không chuẩn xác về sản phẩm nhằm gia tăng doanh số. Điều này sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng khi xảy ra rủi ro nên cần phải có sự quản lý giám sát của nhà nước.
- Duy trì khả năng tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm để phát triển hoạt động kinh doanh bảo hiểm lành mạnh
Hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ có những đặc trưng khác biệt đó là DN bán bảo hiểm thu phí bảo hiểm trước sau đó mới bồi thường, trả tiền bảo hiểm sau một thời gian khi phát sinh rủi ro trong hợp đồng. Do đó, DNBH phi nhân thọ phải luôn sẵn sàng cho nghĩa vụ thanh toán các tổn thất phát sinh thuộc phạm vi hợp đồng cho bên mua bảo hiểm. Mặt khác, các DNBH phi nhân thọ phải quản lý hiệu quả phí thu được để vừa đảm bảo chi trả bồi thường vừa đầu tư sinh lợi. Trên thực tế, phần lớn số phí thu được sẽ được các DNBH phi nhân thọ sử dụng đầu tư trong thời gian tạm thời nhãn rỗi. Nếu hoạt động đầu tư của DNBH phi nhân thọ không được quản lý, giám sát sẽ có thể dẫn đến mất khả năng tài chính của doanh nghiệp. Bằng các quy định về trích lập các quỹ dự phòng, hình thức và mức độ đầu tư cũng như việc kiểm tra giám sát của Nhà nước sẽ giúp cho các DNBH duy trì được khả năng tài chính.
- Thúc đẩy sự phát triển bền vững của các DNBH phi nhân thọ, phục vụ lợi ích chung của nền kinh tế
Mỗi một doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế và nền kinh tế chỉ phát triển khi các tế bào thực sự khoẻ mạnh. Các DNBH phi nhân thọ có tình hình tài chính lành mạnh sẽ thúc đẩy TTBH phi nhân thọ hoạt động tốt, từ đó nâng cao tính hiệu quả của toàn hệ thống tài chính bằng việc giảm chi phí giao dịch, tạo tính thanh khoản, thúc đẩy đầu tư.
Đối với hoạt động của các DNBH phi nhân thọ, việc định phí dựa trên cơ sở thống kê tần suất tổn thất và chi phí trung bình trên mỗi một tổn thất trong quá khứ tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Bên cạnh đó, việc cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường dưới hình thức hạ thấp phí gây ra những ảnh hưởng bất lợi đến an toàn tài chính của DNBH phi nhân thọ. Ngoài ra, việc đa dạng hoá các hình thức đầu tư từ chính các khoản nợ khách hàng rất dễ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của DN. Do đó, Cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm có vai trò quan trọng trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của các DNBH phi nhân thọ trên thị trường đảm bảo được tính khoa học và hợp lý. Theo đó, cơ quan quản lý cần đưa ra các quyết định điều chỉnh hoạt động kinh doanh cho phù hợp với quy mô của DN. Nếu như hoạt động của
DNBH phi nhân thọ nào không thực sự có hiệu quả, không đảm bảo quyền lợi cho người được bảo hiểm hoặc là mất KNTT sẽ được cơ quan quản lý xử lý nhằm đảm bảo phát triển hoạt động theo một trình tự và lợi ích chung của nền kinh tế.
- Bảo vệ lợi ích quốc gia trong hội nhập tài chính quốc tế
Khi toàn cầu hoá đang là một xu thế tất yếu thì chỉ cần một sự đổ vỡ của một định chế tài chính nào đó cũng có thể gây ảnh hưởng xấu đến HĐKD của các định chế tài chính còn lại. Việt Nam đã và đang thực hiện các cam kết song phương và đa phương về hợp tác quốc tế trên lĩnh vực kinh tế bên cạnh việc gia tăng cũng như sáp nhập của các tập đoàn tài chính đa quốc gia đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ đòi hỏi QLNN về hoạt động bảo hiểm vừa phải phù hợp với thông lệ quốc tế vừa đảm bảo lợi ích cho các chủ thể trong nước khi tham gia thị trường. Cũng giống như các lĩnh vực khác trên thị trường tài chính thì thị trường bảo hiểm đang có những thay đổi ứng với sự thay đổi của trình độ phát triển kinh tế, sự biến đổi của tự nhiên và xã hội. Do đó, cơ quan quản lý và giám sát bảo hiểm cần nhận diện và phát hiện ra những rủi ro có thể phát sinh. Các nhà quản lý bảo hiểm phải kết hợp với nhau ở tầm quốc gia và quốc tế nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh của các DNBH phi nhân thọ được quản lý hiệu quả.
Như vậy, trên nhiều phương diện, QLNN đối với hoạt động kinh doanh của các DNBH phi nhân thọ nhằm đạt đến các mục đích quản lý. Các mục đích này đều liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến nhau.
2.2.2 Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
2.2.2.1 Xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển và chính sách pháp luật đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
a. Xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
Trong hệ thống công cụ quản lý thì kế hoạch là một trong những công cụ chủ yếu đóng vai trò quan trọng bởi nó hỗ trợ cho tổ chức sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực hạn chế và đối phó với tính không chắc chắn của môi trường. Chiến lược, kế hoạch hoạt động kinh doanh của DNBH phi nhân thọ là một phần nằm trong kế hoạch tổng thể cho hoạt động của các DNBH. Hoạt động của các DNBH vừa là một hoạt động kinh tế nhưng cũng góp phần thực hiện an sinh xã hội. Do đó, việc xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển hoạt động kinh doanh của các DNBH phi nhân thọ phải phù hợp với định hướng và mục tiêu của Nhà nước.
Nếu chiến lược là vạch ra các đường nét hướng đạo cho sự phát triển trong thời gian dài thì quy hoạch thể hiện tầm nhìn, sự bố trí chiến lược theo không gian và thời gian nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả cao và phát triển bền vững. Trên thực tế, quy hoạch là sự cụ thể hoá chiến lược cả về mục tiêu và giải pháp. Quy hoạch cũng như chiến lược, xét cho cùng vẫn là định hướng, là luận chứng về tính tất yếu, hợp lý cho sự phát triển và tổ chức không gian kinh tế xã hội dài hạn dựa trên sự bố
trí hợp lý, bền vững kết cấu hạ tầng vật chất, kỹ thuật phù hợp với những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái.
b. Xây dựng và ban hành chính sách pháp luật đối với hoạt động kinh doanh của các DNBH phi nhân thọ
Đây là một nội dung quan trọng, xuyên suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm phải dựa vào các văn bản pháp quy, luật kinh doanh bảo hiểm và các nghị định, thông tư hướng dẫn mới hoạt động đúng hướng, phù hợp với xu thế phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, nhờ có chính sách phát triển thị trường, quy hoạch, kế hoạch… của Nhà nước ban hành, hoạt động bảo hiểm mới có điều kiện phát triển toàn diện, sâu rộng và có môi trường kinh doanh…Các chính sách pháp luật đối với hoạt động kinh doanh của các DNBH phi nhân thọ bao gồm các quy định đối với cấp phép hoạt động, trong quá trình hoạt động và sau khi giải thể, phá sản của DNBH phi nhân thọ. Tuy nhiên, trong phạm vi của luận án chỉ tập trung nghiên cứu các chính sách trong quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc và hoạt động đầu tư của DNBH phi nhân thọ. Cụ thể:
(1) Chính sách đối với tổ chức hành chính, nhân sự:
* Tổ chức điều hành và quản trị doanh nghiệp
Cơ quan QLNN yêu cầu các DNBH phi nhân thọ đảm bảo những tiêu chuẩn, điều kiện của người quản trị điều hành doanh nghiệp về năng lực, kinh nghiệm làm việc. Nếu các cá nhân không đáp ứng đủ các điều kiện đề ra thì cơ quan quản lý có quyền không chấp thuận hoặc nếu có sự thay đổi các vị trí quản lý trong doanh nghiệp thì cũng cần phải báo cáo bằng văn bản cho cơ quan quản lý. Bên cạnh đó, các DNBH phi nhân thọ còn phải thiết lập được hệ thống quản trị rủi ro để nhận dạng, đo lường, đánh giá và kiểm soát rủi ro trong điều kiện cụ thể của DN.
* Tổ chức các kênh phân phối
Bên cạnh kênh phân phối truyền thống thì các kênh phân phối qua đại lý với nhiều hình thức khác nhau đang là xu hướng khai thác của các DNBH phi nhân thọ. Nếu không có cơ chế quản lý đối với các đại lý thì dễ gây nên hiện tượng các đại lý không có đầy đủ chuyên môn để cung cấp sản phẩm bảo hiểm, ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia bảo hiểm. Do đó, nhà nước phải có những yêu cầu để cấp phép hoạt động cho các đại lý bảo hiểm đảm bảo chuyên môn hành nghề và đạo đức nghề nghiệp. Đây là cơ sở buộc các DN phải có chính sách tổ chức tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, chi trả hoa hồng đại lý theo đúng quy định.
* Hệ thống kiểm soát nội bộ
Xuất phát từ đặc trưng kinh doanh nên DNBH phi nhân thọ luôn gắn liền với các hoạt động sau: Xác định phí bảo hiểm đối với các sản phẩm bảo hiểm; thu phí bảo hiểm từ các hợp đồng cung cấp sản phẩm bảo hiểm; đầu tư tăng trưởng quỹ; trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ; giám định và bồi thường tổn thất. Nếu DNBH có hệ thống kiểm soát nội bộ thì việc kiểm soát quy trình nghiệp vụ sẽ chặt chẽ, tránh những sai sót về nghiệp vụ. Bên cạnh đó, hệ thống kiểm soát nội bộ còn giải quyết các xung đột lợi ích trong DN cũng như giúp DN đứng vững trong cạnh tranh. Vì vậy, cơ quan quản lý
thường quy định các DNBH phi nhân thọ cần phải xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về hoạt động khai thác, bồi thường, dự phòng, kiểm soát chi phí đồng thời có nguồn số liệu chính xác để phục vụ công tác định phí.
(2) Chính sách về tài chính
* Chính sách về vốn:
Vốn chủ sở hữu không chỉ là chỉ tiêu phản ánh khả năng tài chính của DNBH mà còn là một nguồn lực tài chính quan trọng tạo nền tảng giúp các DNBH tiến hành hoạt động kinh doanh. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi cho người được bảo hiểm, cơ quan quản lý yêu cầu mỗi DNBH phi nhân thọ muốn đi vào hoạt động phải có một số vốn lớn nhất định. Mức độ yêu cầu về vốn do mỗi quốc gia quy định, phụ thuộc vào phạm vi hoạt động của DN, mức độ rủi ro mà DN có thể gặp phải trong kinh doanh. Ở một số quốc gia cơ quan quản lý còn yêu cầu các DNBH phi nhân thọ có một khoản tiền nhất định để kí quỹ và phải luôn duy trì mức ký quỹ này. Ngoài yêu cầu mức vốn DNBH phi nhân thọ cần có khi gia nhập thị trường, trong suốt quá trình kinh doanh DNBH phi nhân thọ phải duy trì một mức vốn theo quy định phụ thuộc vào phạm vi và rủi ro của từng nghiệp vụ mà DNBH kinh doanh [48]. Các quốc gia thường có những quy định về vốn như sau:
- Vốn tối thiểu: Cơ quan quản lý thường quy định trong các văn bản pháp luật mức vốn tối thiểu, thường là mức vốn pháp định hay vốn điều lệ của DNBH phi nhân thọ. DNBH phi nhân thọ có nghĩa vụ duy trì mức vốn chủ sở hữu không thấp hơn mức vốn tối thiểu trong suốt quá trình hoạt động. Bất cứ giao dịch nào làm thay đổi mức vốn điều lệ của DNBH phi nhân thọ đều phải có báo cáo với cơ quan quản lý [48].
- Vốn trên cơ sở rủi ro (RBC): Là mức vốn tối thiểu mà một DNBH cần duy trì để bù đắp cho những rủi ro mà DNBH phải đối mặt trong quá trình hoạt động, mức vốn được tính dựa trên mức độ, đặc trưng rủi ro cũng như quy mô của DN đó. Trên cơ sở các dữ liệu cho phép nghiên cứu các rủi ro tác động đến tình hình tài chính của các DNBH phi nhân thọ, từ đó xây dựng nên các hệ số rủi ro có thể ảnh hưởng trực tiếp tới tài chính và KNTT của DN. Khi đưa ra các hệ số rủi ro đồng nghĩa với việc cơ quan QLNN sẽ đánh giá được KNTT và năng lực tài chính của DNBH phi nhân thọ để quản lý hoạt động kinh doanh của họ phù hợp nhất.
Các loại rủi ro tác động tới tài chính DNBH (1)
Các hệ số RBC
Vốn trên cơ sở rủi ro đối với (1)
Công thức tính toán
Mức vốn trên cơ sở rủi ro đã dược tính toán So sánh với nguồn vốn quỹ đã được điều chỉnh
Tỷ số RBC
Hình 2.1. Mô hình quản lý vốn trên cơ sở rủi ro
(Nguồn: Công ty môi giới bảo hiểm Aon)
Các quy định về quản lý vốn theo quy mô hoạt động và rủi ro kinh doanh thường bao gồm hai nhóm nội dung chính: công thức để xác định mức vốn tối thiểu cần thiết và các hình thức can thiệp của cơ quan quản lý tuỳ thuộc vào mức độ thiếu hụt vốn so với kết quả tính RBC của doanh nghiệp. Khi áp dụng phương pháp này, cơ quan quản lý sẽ căn cứ vào kinh nghiệm khai thác, kinh doanh bảo hiểm của từng DNBH cụ thể để xác định các yếu tố cơ bản, bao gồm:(i) Các thông tin chung hay các nhân tố rủi ro mà các DNBH phải đối mặt; (ii) Xác định vốn yêu cầu (required capital) để tính toán RBC đối với từng rủi ro và mức vốn yêu cầu đối với cả DNBH; (iii) Xác định vốn khả dụng (available capital) của DNBH gồm: vốn chủ sở hữu, thặng dư vốn; (iv)Xác định tỷ lệ vốn RBC = Vốn hiện có/ Vốn yêu cầu và các cấp độ can thiệp.
* Chính sách về khả năng thanh toán
Mọi DNBH phải luôn duy trì KNTT trong suốt quá trình hoạt động của mình cho nên Nhà nước yêu cầu các DNBH phải duy trì tài sản có tương ứng với trách nhiệm. Các sản phẩm cung cấp phải phù hợp với khả năng tài chính thực có của DNBH, tránh tình trạng trách nhiệm bảo hiểm lớn hơn vốn, không đảm bảo chi trả bồi thường. Ở các quốc gia phát triển, quy định về khả năng thanh toán thường gồm có: Biên khả năng thanh toán; Biên khả năng thanh toán I (Solvency I); Biên khả năng thanh toán II (SolvencyII).
- Biên khả năng thanh toán Solvency: Được áp dụng ở toàn thị trường châu Âu từ những năm 1970 với quy định tương đối đơn giản. Trong đó, biên khả năng thanh toán bằng tổng công nợ cộng với một tỷ lệ phần trăm cố định.
- Hệ thống Solvency I: Được áp dụng năm 2004 ở châu Âu trong đó quy định các DNBH phi nhân thọ phải duy trì hệ số biên khả năng thanh toán không dưới 100% nhằm đáp ứng yêu cầu đầy đủ vốn. Trong trường hợp hệ số biên KNTT dưới 100% thì DNBH đó bị coi là có nguy cơ mất KNTT.
- Hệ thống Solvency II: Chính thức có hiệu lực từ năm 2016 ở châu Âu, quy định việc huy động và quản lý vốn của các DNBH. Theo đó, DNBH cần có đủ nguồn lực tài chính để bảo đảm an toàn trong những tình huống thua lỗ nặng nề nhất có thể xảy đến trong vòng 12 tháng. Solvency II tiếp cận vấn đề từ góc độ rủi ro tiềm tàng, tức là DN càng nhiều rủi ro thì càng phải cẩn trọng áp dụng biện pháp phòng ngừa. Theo đó, Solvency II sẽ dựa trên các nguyên tắc kinh tế học để đánh giá các tài sản và các khoản nợ của DNBH phi nhân thọ và xây dựng một hệ thống dựa vào rủi ro để xác định yêu cầu vốn của DNBH.
Ba yếu tố trụ cột trong Solvency II là: (1) tính định lượng, tức là cụ thể hóa số vốn mà doanh nghiệp bảo hiểm phải duy trì; (2) công tác quản trị nội bộ và giám sát; (3) công bố thông tin và bảo đảm tính minh bạch để thị trường có thể tự đánh giá doanh nghiệp một cách chính xác hơn [64].
Tài sản
Nợ
Vốn thặng dư
Biên khả năng thanh toán hữu dụng
SCR
MCR
Biên rủi ro
Tài sản đảm bảo
DPKT
Nợ ước Dự phòng
tính cao nghiệp vụ nhất
Hình 2.2. Biên khả năng thanh toán Solvency II
(Nguồn: Công ty môi giới bảo hiểm Aon)
Căn cứ vào việc so sánh giữa vốn khả dụng với SCR và MCR, có 3 khả năng can thiệp từ phía cơ quan QLNN như sau:
(1) Nếu biên khả năng thanh toán hữu dụng lớn hơn SCR: Cơ quan QLNN
không can thiệp
(2) Nếu biên khả năng thanh toán hữu dụng thấp hơn SCR: Cơ quan QLNN
cần có những biện pháp nhằm khôi phục tình hình tài chính của doanh nghiệp
(3) Nếu biên khả năng thanh toán hữu dụng thấp hơn MCR: DNBH sẽ bị cơ
quan QLNN thu hồi giấy phép hoạt động.
* Chính sách về trích lập dự phòng
Khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực thì DNBH phi nhân thọ đã nhận trách nhiệm đối với những rủi ro của người được bảo hiểm trong phạm vi của hợp đồng. Để đảm bảo KNTT cho những rủi ro có thể xảy ra thì cơ quan quản lý quy định các DNBH phải trích lập dự phòng cho các khoản nợ phải trả sẽ phát sinh trong tương lai. Việc trích lập dự phòng sẽ chi phối trực tiếp nhiều vấn đề tài chính như KNTT của DNBH, kết quả kinh doanh, thuế phải nộp ngân sách,…Do vậy, cơ quan quản lý phải đưa ra những quy định rõ ràng về việc trích lập các loại dự phòng.
Trong kỹ thuật bảo hiểm đòi hỏi các DNBH phải trích lập nhiều loại dự phòng, DNBH phi nhân thọ phải lập các khoản dự phòng nghiệp vụ tương ứng với các cam kết của khách hàng như dự phòng các trách nhiệm chưa hoàn thành, dự phòng các tổn thất phải trả, dự phòng dao động lớn. Các khoản dự phòng này được coi là các khoản nợ mà công ty bảo hiểm sẽ phải trả cho khách hàng trong tương lai. Trên thực tế, để đảm bảo khả năng chi trả thường xuyên ngoài việc lập các khoản dự phòng nghiệp vụ này, luật pháp các nước buộc các công ty bảo hiểm phải duy trì nguồn tài sản khác tương ứng với mức độ và quy mô kinh doanh [48].