So sánh pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới - 2

Nhà nước Việt Nam. Ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, mô tả và so sánh, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn.

6. Điểm mới của Luận văn

Pháp luật về quản lý thuế ở Việt Nam là một trong những đề tài được không ít các tác giả trong giới nghiên cứu quan tâm, lựa chọn. Tuy nhiên, pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân lại chưa được tìm hiểu một cách chuyên sâu và có hệ thống. Trên cơ sở kế thừa và phát huy những kết quả đã đạt được, luận văn cũng mạnh dạn đóng góp những điểm mới của đề tài như sau:

- Thứ nhất, luận văn đã khái quát một cách hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý thuế cũng như pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam để làm nổi bật lên vấn đề lý luận cơ bản về quản lý thuế thu nhập cá nhân ở nước ta.

- Thứ hai, luận văn đưa ra những nhận xét cụ thể về ưu, nhược điểm của pháp luật Việt Nam về quản lý thuế thu nhập cá nhân. Kế thừa các quy định quản lý thuế thu nhập cá nhân ở một số quốc gia trên thế giới. Trên cơ sở đó, luận văn mạnh dạn đề xuất những giải pháp cụ thể để hoàn thiện hơn nữa pháp luật về quản lý thuế thu nhập, cũng như giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế thu nhập cá nhân

Chương 2: Thực trạng pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam và pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân ở một số nước trên thế giới

Chương 3: Định hướng hoàn thiện pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam và một số kiến nghị

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

Chương 1

THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN

So sánh pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới - 2


1.1. Khái quát về thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế thu nhập cá nhân

1.1.1. Khái quát về thuế thu nhập cá nhân

1.1.1.1. Khái niệm

Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế xuất hiện tương đối sớm. Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế phổ biến trên thế giới và có lịch sử hàng trăm năm nay. Đến nay đã có hơn 180 nước áp dụng thuế thu nhập cá nhân. Trong đó, quốc gia đầu tiên áp dụng thuế thu nhập cá nhân là Hà Lan năm 1797, sau đó là ở nước Anh vào năm 1799. Đầu tiên nó đã bị phản đối rất nhiều, bản thân Thủ tướng nước Anh William Pitt năm 1798 đã từng nói thật là nhục nhã và xấu hổ đối với cơ quan thuế và hình ảnh của một quốc gia khi bắt một quý ông hay một quý cô phải nói với ai đó về thu nhập của họ. Nhưng chỉ một năm sau thì chính ông đã phải thay đổi quan điểm, và thuế thu nhập cá nhân đã ra đời. “Ở Mỹ, thuế thu nhập cá nhân đã xuất hiện trong thời kỳ chiến tranh 1812 và nó cũng dựa vào điều luật thuế của nước Anh năm 1798” [6]. Vậy thuế thu nhập cá nhân là gì, nó có những đặc điểm và vai trò gì mà khiến các quốc gia đặc biệt quan tâm và đưa nó thành một sắc thuế trong hệ thống thuế?

Trước tiên, để hiểu thế nào là thuế thu nhập cá nhân, chúng ta phải hiểu thế nào là thu nhập.

Thu nhập là tổng các giá trị tài sản và của cải được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ của một chủ thể nào đó trong nền kinh tế - xã hội tạo ra và nhận được từ các nguồn lao động, tài sản hay đầu tư thông qua quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong một khoảng thời hạn nhất định (thường là 01 năm) [1].

Về nguyên tắc, bất kỳ một thể nhân hay pháp nhân nào khi nhận được thu nhập dưới bất cứ hình thái nào (hiện vật hay giá trị) và bất kể từ nguồn nào (do lao động, hay đầu tư …) đều phải trích một phần từ thu nhập đó để nộp cho Nhà nước dưới dạng thuế thu nhập.

Như vậy, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của mỗi cá nhân trong xã hội trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm).

1.1.1.2. Đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân

Thu nhập chịu điều tiết của thuế sẽ căn cứ vào cụ thể nguồn gốc phát sinh của các khoản thu nhập và căn cứ vào đặc điểm cư trú hay một số đặc điểm khác tùy theo luật của từng nước.

Thông thường các nước vẫn sử dụng nguyên tắc cư trú để đánh thuế thu nhập cá nhân. Quan niệm về nơi cư trú của các quốc gia gần như là tương đồng. Nó có những nội dung cơ bản sau: có nơi ở chính tại quốc gia đó hoặc có thời gian sống ở đó từ 183 ngày trở lên hoặc lâu hơn những nơi khác. Thời gian này có thể thay đổi theo quy định của từng quốc gia; Hành nghề chính tại quốc gia đó, tức là phần lớn thu nhập của đối tượng được tạo ra từ những hoạt động này; Có trung tâm lợi ích kinh tế tại quốc gia đó, tức là có phần vốn đầu tư chủ yếu hoặc có trụ sở hoạt động tại quốc gia đó. Thu nhập chịu thuế bao gồm tất cả các khoản thu nhập theo quy định của Nhà nước sau đó được khấu trừ đi các khoản chi phí khác được phép khấu trừ theo quy định của Nhà nước. Nhà nước sẽ có một danh mục các khoản thu nhập mà phải tính vào thu nhập chịu thuế, đồng thời sẽ có một danh mục khác liệt kê các chi phí được phép khấu trừ khỏi thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế. Ví dụ ở Pháp thì người ta chia ra làm 8 loại thu nhập (thu nhập từ cho thuê bất động sản, thu nhập từ tiền lương, thu nhập từ hoạt động sản xuất công nghiệp và thương mại, thu nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp …), còn ở Việt Nam, người ta chia thu nhập chịu thuế ra làm 2 loại là thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Ta sẽ trình bày chi tiết hơn về nội dung thuế của Việt Nam ở các phần sau. Ngoài ra, có những trường hợp các cá nhân có thu nhập phát sinh ở nước ngoài mà đã nộp thuế một phần ở nước ngoài, thì khi đó việc khấu trừ thuế nộp ở trong nước sẽ phụ thuộc vào hiệp định ký kết giữa quốc gia đó và bên nước ngoài về việc tránh đánh thuế hai lần. Các đối tượng không cư trú tại quốc gia đó thì sẽ chỉ có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân đối với phần thu nhập phát sinh tại quốc gia đó.

Do đối tượng nộp thuế đồng thời cũng chính là đối tượng chịu thuế nên thuế thu nhập cá nhân được xếp vào loại thuế trực thu.

Phạm vi điều chỉnh của luật thuế thu nhập cá nhân là rất rộng lớn và do đặc điểm đối tượng chịu thuế trực tiếp phải nộp thuế nên sức ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế và thái độ của dân cư là hết sức to lớn. Không giống như các loại thuế gián thu, ví dụ thuế tiêu dùng, khoản thuế được tính sẵn trong giá thanh toán nên nó không ảnh hưởng nhiều đến tâm lý của người mua về khoản thuế mình phải nộp, thuế trực thu có thể hiểu bóng bẩy là Nhà nước trực tiếp thò tay vào túi chúng ta và lấy tiền của ta ra, điều đó chắc chắn sẽ có ảnh hưởng mạnh về tâm lý của người nộp thuế. Chính vì vậy, mỗi khi Chính phủ có những thay đổi trong chính sách thuế thu nhập cá nhân như việc điều chỉnh thuế suất và thay đổi phạm vi các đối tượng được miễn giảm thuế thì đều gây ra phản ứng mạnh mẽ trong dân cư.

Ngay khi Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân lần đầu tiên đi vào thực hiện tại Việt Nam (01/4/1991), các cá nhân người nước ngoài làm việc và có thu nhập phát sinh tại Việt Nam phản ứng cũng khá quyết liệt khi thấy rằng thuế suất thuế thu nhập cá nhân đối với họ là quá cao, do lúc đó thu nhập trung bình của nước ta vẫn còn thấp, trong khi đó lương trả cho các chuyên gia nước ngoài thì cao hơn nhiều so với trong nước. Ở đây, ta muốn khẳng định lần nữa là thuế thu nhập cá nhân mang đặc điểm là loại thuế trực thu và phạm vi điều tiết rất rộng nên nó có ảnh hưởng rất mạnh đến tâm lý của dân cư [2].

Thuế thu nhập cá nhân thông thường là loại thuế lũy tiến.

Các nước thường xây dựng một biểu thuế lũy tiến, các bậc ứng với mức thu nhập càng cao thì có mức thuế suất càng cao. Do đó, những người có thu nhập càng cao thì phải chịu mức thuế đóng góp cao hơn so với những người có mức thu nhập thấp hơn. Nó góp phần đảm bảo tính chất công bằng trong phân phối xã hội, công bằng ở đây là công bằng theo chiều dọc. Biểu thuế lũy tiến được xây dựng căn cứ vào nguyên tắc đánh thuế dựa vào khả năng nộp thuế của các cá nhân khác nhau. Những người có thu nhập cao thì có khả năng nộp thuế cao hơn những người có thu

nhập thấp và ngược lại. Tư tưởng đánh thuế dựa vào khả năng nộp thuế của nhà vua Writ - vị vua nước Anh vào thế kỷ 17 đã là cơ sở cho sự phát triển rất sớm của các biểu thuế lũy tiến. Khoảng cách tương đối giữa các bậc thuế suất sẽ quyết định tính chất lũy tiến mạnh hay yếu của biểu thuế. Khoảng cách này mà càng lớn thì mức độ lũy tiến của biểu thuế càng cao và ngược lại.

Thuế thu nhập cá nhân là một loại thuế phức tạp và mang tính trung lập đối với cơ cấu kinh tế.

Do đặc điểm là điều tiết lên thu nhập của dân cư, phạm vi điều tiết rất rộng nên việc quản lý đối với loại thuế này là hết sức khó khăn. Nó dễ gây phản ứng của người nộp thuế. Đồng thời do tính chất phân tán và động của đối tượng chịu thuế và nguồn thuế nên công tác quản lý thu rất khó khăn. Chính vì đặc điểm này mà chi phí hành thu của thuế thu nhập cá nhân rất cao. Ngoài ra, nó điều tiết lên thu nhập chứ không phải là lên tiêu dùng nên nó không có tác động trực tiếp đối với một ngành kinh tế cụ thể nào cả. Tuy nhiên, nếu xem xét một cách sâu sắc thì thuế thu nhập cá nhân vẫn có những tác động nhất định đối với cơ cấu nền kinh tế. “Thuế thu nhập cá nhân được sử dụng như là một công cụ thuế đắc lực trong chính sách tài khóa quốc gia, nó ảnh hưởng đến tổng cầu nền kinh tế, do đó nó cũng có những ảnh hưởng nhất định đối với cơ cấu nền kinh tế” [39].

1.1.1.3 Vai trò của thuế thu nhập cá nhân

Thuế thu nhập cá nhân góp phần quan trọng bảo đảm nguồn thu ngân sách Nhà nước.

Chúng ta biết rằng thuế thu nhập cá nhân được thu dựa vào mức thu nhập của dân cư. Thu nhập của dân cư càng cao thì nó cũng đồng nghĩa với mức thu từ thuế thu nhập cá nhân sẽ tăng. Thông thường, ở những nước càng phát triển thì tỷ trọng đóng góp của thuế trực thu càng lớn, trong đó thuế thu nhập cá nhân chiếm tỷ trọng khá cao. Hiện nay ở các nước này, tỷ trọng thu ngân sách của thuế thu nhập cá nhân chiếm rất cao từ 30 - 40%, có một số nước trên 50% như: Hà Lan (52%); Đan Mạch (55,4%); Thụy Điển (56,6%). Còn ở các nước đang phát triển, đời sống người dân chưa cao, thu nhập trung bình mới chỉ đủ cho các hoạt động sinh hoạt cần thiết

của người dân và tiết kiệm ra một phần nhỏ. Số lượng những người có thu nhập cao, giàu có trong xã hội thì chỉ chiếm một phần rất nhỏ, đại bộ phận dân cư là có thu nhập và mức sống còn thấp so với dân cư các nước phát triển. Chính vì vậy, khả năng đóng góp thuế thu nhập cá nhân cho Nhà nước ở các nước đang phát triển vẫn còn rất thấp, chỉ chiếm từ 15 - 30% tỷ trọng thu ngân sách.

Thuế thu nhập cá nhân góp phần đảm bảo tính công bằng và giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội.

Một chức năng quan trọng của thuế là nhằm đảm bảo tính công bằng và giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Trong các loại thuế thì thuế thu nhập cá nhân thể hiện rõ nét nhất vai trò này. Người có thu nhập cao phải nộp thuế nhiều hơn người có thu nhập trung bình, có thu nhập như nhau nhưng người có hoàn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít hơn. Tinh thần này luôn được quán triệt khi xây dựng Luật thuế TNCN. Do đặc điểm là thuế đánh trên thu nhập của các cá nhân cùng với tính chất lũy tiến của thuế thu nhập cá nhân đã thu hẹp được khoảng cách về thu nhập giữa các cá nhân có mức thu nhập cao và các cá nhân có mức thu nhập thấp. Đây là quan điểm công bằng theo chiều dọc, những người có khả năng nộp thuế càng cao thì sẽ nộp nhiều thuế hơn và ngược lại. Nó khác so với quan điểm công bằng theo chiều ngang là tất cả mọi người sẽ nộp thuế cùng với một tỉ lệ như nhau. Các khoản thuế thu được sau đó có thể được chính phủ sử dụng để trợ giúp lại những người có thu nhập thấp. Trên lý thuyết đây là một loại thuế rất ưu việt trong việc điều hòa thu nhập giữa người giàu và người nghèo. Tuy nhiên thực tế nó vẫn còn gây rất nhiều tranh cãi. Khoảng cách giàu nghèo trong xã hội ngày càng mở rộng hơn, người ta đặt ra câu hỏi liệu chính sách thuế thu nhập cá nhân có thực sự đem lại sự phân phối công bằng hơn cho xã hội hay là nó không có tác dụng gì cả hay nếu có thì là không đáng kể.

Vậy cách đánh thuế như thế nào là công bằng? Liệu chính sách thuế thu nhập theo biểu thuế lũy tiến đã là công bằng với những người có thu nhập cao hay chưa? Và biểu thuế lũy tiến với các bậc thuế như vậy đã là công bằng hay chưa? Các chính phủ đều chấp nhận và coi một biểu thuế lũy tiến là công bằng hơn cho tất cả, tất

nhiên nó cũng phải hy sinh quyền lợi của một số ít để đảm bảo quyền lợi số đông. Việc điều chỉnh mức thuế suất thuế thu nhập sẽ là công cụ để chính phủ điều chỉnh mức công bằng lệch về phía nào, người có thu nhập cao hay người có thu nhập thấp. Chúng ta cần phải hiểu ở đây ý nghĩa công bằng chỉ là mang tính tương đối, nó công bằng cho một bộ phận dân cư này nhưng nó cũng là không công bằng cho một bộ phận dân cư khác. Chính sách thuế thu nhập cá nhân được xây dựng nhằm mục đích là đem lại sự công bằng cao nhất cho xã hội trong điều kiện có thể, tất nhiên nó cũng cần phải đảm bảo các mục tiêu khác của xã hội.

Thuế thu nhập cá nhân làm cho mỗi người dân có ý thức hơn về nghĩa vụ và quyền của mình đối với Nhà nước.

Điều này ta có thể thấy rõ nét khi đem so sánh về ý thức con người giữa các nước phát triển như Mỹ, Pháp, Đức … với các nước đang phát triển như Việt nam, Lào, Indonesia … Do ở các nước phát triển, hệ thống thuế trực thu đã phát triển và hầu hết mọi người dân đều phải tự tính thuế và nộp thuế cho mình, do đó quan niệm về thuế của họ rất rõ ràng, họ cảm thấy mình có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Họ cảm thấy tự hào khi nộp thuế vì biết mình đã đóng góp cho Nhà nước. Tất nhiên cũng có nhiều trường hợp trốn thuế nhưng đây chỉ là những trường hợp cá biệt. Còn ở những nước đang phát triển thì sao? Khái niệm nộp thuế cho Nhà nước còn là điều hết sức mới lạ với rất nhiều người. Họ không biết mình phải nộp thuế. Hàng ngày chúng ta vẫn phải nộp thuế, nhưng do là thuế gián thu nên chúng ta không biết. Khi phải tính và nộp thuế trực thu thì nhiều người không hề thấy thoải mái chút nào. Chính vì không phải tự tính thuế và nộp thuế cho mình nên ý thức về thuế của người dân ở những nước đang phát triển là rất thấp. Minh chứng đơn giản là việc dân cư đi qua cầu phải nộp phí, lệ phí; có phải ai cũng nộp không, nếu trốn được thì họ cũng sẽ sẵn sàng làm ngay cho dù đó chỉ là một khoản tiền rất nhỏ. Nhìn những nước phát triển, dù không có người thu tiền phí và lệ phí thì người đi qua những nơi phải nộp phí và lệ phí vẫn tự giác bỏ tiền vào chỗ thu tiền rồi mới đi qua. Cũng chính vì sự nhận thức về nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước của người dân những nước đang phát triển thấp hơn người dân những nước phát triển cho nên ý thức về quyền con người của họ cũng thấp hơn. Những người càng có ý thức về nghĩa vụ của mình đối

với Nhà nước càng cao thì họ càng có ý thức về quyền của mình đối với Nhà nước cao hơn, họ đòi hỏi Nhà nước cũng phải thực hiện lại những nghĩa vụ đối với họ. Chính vì vậy, ta có thể thấy rằng sự phát triển của thuế thu nhập cá nhân cũng là một bước đánh dấu sự phát triển về nhận thức và văn hóa của con người. Đi kèm với sự phát triển về kinh tế bao giờ cũng là sự phát triển về con người.

1.1.2. Quản lý thuế thu nhập cá nhân

1.1.2.1. Khái niệm quản lý thuế thu nhập cá nhân

Trước tiên, để hiểu rõ hơn về khái niệm quản lý thuế thu nhập cá nhân nói riêng, hãy tìm hiểu về khái niệm quản lý thuế nói chung.

Quản lý thuế được một số tác giả khái niệm hóa như sau:

Quản lý thuế là quản lý việc thực thi và đảm bảo thực thi các chính sách thuế hay là việc thực thi quyền hành pháp và tư pháp của Nhà nước trong lĩnh vực thuế [8].

Quản lý thuế là một quá trình tổ chức thực thi chính sách thuế, thông qua quá trình tác động của cơ quan thuế lên các tổ chức và công dân nhằm đảm bảo và tăng cường sự tuân thủ nghĩa vụ thuế một cách đầy đủ, tự nguyện và đúng thời hạn trong điều kiện môi trường quản lý thuế luôn biến động [34].

Điều 3 Luật Quản lý thuế Việt Nam liệt kê các nội dung quản lý thuế gồm: “Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế; thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế; xóa nợ tiền thuế, tiền phạt; quản lý thông tin về người nộp thuế; kiểm tra thuế, thanh tra thuế; cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; xử lý vi phạm pháp luật về thuế; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế” [29, Điều 3]. Điều này cho thấy nhà lập pháp Việt Nam xác định quản lý thuế theo nghĩa hẹp.

Thuế thu nhập cá nhân là một bộ phận trong hệ thống thuế, do đó, quản lý thuế thu nhập cá nhân là sự tác động có chủ đích của các cơ quan chức năng trong bộ máy Nhà nước đối với quá trình tính và thu thuế thu nhập cá nhân để thay đổi quá trình này nhằm tạo nguồn thu cho ngân sách và đạt được các mục tiêu Nhà nước đặt ra.

Xem tất cả 136 trang.

Ngày đăng: 01/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí