Ba là ý thức xã hội của người dân còn chưa cao. Hiện nay, sự vô cảm, thờ ơ với các hiện tượng tiêu cực ngày càng trở nên phổ biến. Không ngoại lệ, người dân cũng có thái độ thờ ơ đối với vấn đề TLBH, bởi hành vi TLBH nếu so với các hành vi tiêu cực khác, sẽ được coi là “rất bình thường” không có ảnh hưởng gì đến đại đa số nhân dân, đương nhiên xã hội càng bàng quan và thờ ơ.
2.3.4. Nguyên nhân từ phía các cơ quan hữu quan
Một số cơ quan công quyền (Công an, chính quyền địa phương…) thiếu
tinh thần trách nhiêm
, thiếu sự phối hợp, hỗ trợ, thâm
chí gây khó khăn cho
DNBH trong viêc điêù tra, xác minh các hồ sơ khiếu nại có nghi ngờ trục lợi,
thậm chí còn xuất hiện dấu hiêu
tham nhũng, ăn hối lộ và ngày càng phổ biến.
Có thể bạn quan tâm!
- Trục Lợi Bảo Hiểm Từ Những Vi Phạm Trong Khâu Tư Vấn Bảo Hiểm – Tức Là Trục Lợi Bảo Hiểm Có Sự Liên Quan Hoặc Sự Thông Đồng Với Người
- Nguyên Nhân Của Những Tồn Tại, Hạn Chế Trong Quá Trình Áp Dụng Các Biện Pháp Pháp Lý Hạn Chế Trục Lợi Bảo Hiểm Nhân Thọ Ở Việt Nam Hiện Nay
- Không Có Quy Định Về Trách Nhiệm Trao Đổi Cơ Sở Dữ Liệu Khách Hàng Giữa Các Dnbh
- Các biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam hiện nay - 11
- Các biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam hiện nay - 12
Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.
Một số tổ chức giám định, cơ sở y tế không có ý thức về ngăn ngừ a trục lợi, dễ dàng bị mua chuộc để sai lêc̣ h , làm giả hồ sơ yêu cầu bồi thường để tiếp tay trục lợi. Bên cạnh đó, một số cơ quan, đơn vị, bệnh viện… thiếu sự
hợp tác với công ty BHNT trong việc cung cấp thông tin liên quan đến rủi ro. Chẳng hạn, các cơ sở y tế thường từ chối việc cung cấp bệnh án nếu không có đầy đủ giấy ra viện và cũng từ chối xác nhận nếu như không tìm thấy hồ sơ bệnh án hay việc xác nhận của các cơ quan hữu quan về nội dung vụ việc tai nạn rất chung chung, không rõ ràng… đã làm cho khâu giám định, xác minh trong việc chi trả BHNT nói chung và phát hiện ra các vụ TLBH nói riêng gặp không ít khó khăn trở ngại.
Kết luận chương 2
1. Hiện tượng TLBH đang ngày càng gia tăng với những thủ đoạn ngày càng tinh vi. Các đối tượng TLBH đa dạng thường liên quan đến quá trình ký kết và thực hiện HĐBH gắn liền với những vi phạm trong quá trình thực hiện các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin: từ việc người tham gia bảo hiểm che dấu, làm sai lệch thông tin khi yêu cầu tham gia bảo hiểm; người thụ hưởng gian
lận để được giải quyết quyền lơi bảo hiêm̉ ; sự tiếp tay của cán bộ y tế, công an,
cán bộ chính quyền... đến những đối tượng trong nội bộ DNBH, mà đặc biệt là sự góp mặt của ĐLBH thể hiện qua hình thức thông đồng với người tham gia bảo hiểm hay chiếm dụng tiền bảo hiểm của DNBH và/hoặc khách hàng.
2. Tính đến thời điểm hiện nay, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa xử phạt được trường hợp nào liên quan đến hành vi TLBH. Bên cạnh đó, những vụ việc tranh chấp trong lĩnh vực KDBH do Tòa án thụ lý, giải quyết cũng chưa xử lý được bất kỳ tổ chức, cá nhân nào liên quan đến hành vi TLBH.
3. Những tồn tại, hạn chế từ thực tiễn thi hành các biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi BHNT xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, từ nguyên nhân về khả năng áp dụng pháp luật của một số chủ thể thực hiện biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi BHNT, về ý thức xã hội và nhận thức của người dân… đến các nguyên nhân về mặt pháp lý do những hạn chế, khiếm khuyết trong bản thân pháp luật điều chỉnh TLBH.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÁC BIỆN PHÁP PHÁP LÝ HẠN CHẾ TRỤC LỢI BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Qua kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy, hiệu quả thực thi các biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi BHNT không chỉ phụ thuộc vào các chủ thể thực hiện các biện pháp pháp lý mà còn phụ thuộc vào sự hoàn thiện nội dung của pháp luật điều chỉnh trục lợi BHNT và những yếu tố khác. Để nâng cao hiệu quả các biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi BHNT, Đề tài có một số kiến nghị sau đây:
3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm hạn chế hành vi trục lợi bảo hiểm nhân thọ
3.1.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin
Như đã phân tích ở Chương 2, Điều 19 và Điều 22 Luật KDBH có quy định rất khác nhau về chế tài đối với hành vi “cung cấp thông tin sai sự thật” trước khi ký kết HĐBH. Cụ thể, Điều 22 cho rằng hành vi này phải dẫn đến hệ quả là hợp đồng vô hiệu trong khi Điều 19 lại cho phép DNBH có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng. Một điều đáng lưu ý là hậu quả của hai chế tài trên là hoàn toàn khác nhau. Do đó, sự thiếu nhất quán này có thể gây ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình thực hiện pháp luật của DNBH cũng như cơ quan nhà nước trong hoạt động giải quyết tranh chấp liên quan đến TLBH. Hơn nữa, cả Điều 19 và Điều 22 đều không quy định chế tài đối với hành vi “cung cấp thông tin sai sự thật” trong giai đoạn thực hiện hợp đồng. Cho nên, việc sửa đổi, bổ sung các Điều luật này là hết sức cần thiết nhằm đảm bảo tính nhất quán và đầy đủ trong các chế định về nghĩa vụ cung cấp thông tin. Tác giả kiến nghị sửa đổi theo hướng: nếu hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật xảy ra trước khi giao kết HĐBH làm cho phía bên kia
nhầm lẫn để đi đến quyết định giao kết hợp đồng thì nên xem đây là trường hợp hợp đồng vô hiệu. Trường hợp, trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có hành vi cung cấp thông tin sai sự thật để duy trì hợp đồng hoặc để yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm thì pháp luật nên quy định thuộc trường hợp được quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng, bởi trường hợp một người thực hiện hành vi gian dối để ký kết hợp đồng thì đây được xem là trường hợp giao dịch được xác lập do lừa dối, cho nên áp dụng Điều 132 Bộ luật dân sự, giao dịch đó phải bị tuyên vô hiệu. Ngược lại, trong trường hợp một người tiến hành một hành vi gian dối trong quá trình thực hiện hợp đồng thì đây được xem là hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và do đó phải chịu các chế tài theo quy định của pháp luật về hợp đồng, cụ thể đó là chế tài “đơn phương đình chỉ hợp đồng”.
Do vậy, nhà làm luật cần nhanh chóng ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng các quy định pháp luật về việc cung cấp thông tin không trung thực để các cơ quan tiến hành tố tụng đưa ra những bản án phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của bên mua bảo hiểm cũng như của DNBH; đảm bảo sự trung thực và bình đẳng trong quan hệ hợp đồng vì lợi ích chung của cộng đồng và góp phần tạo ra một hành lang pháp lý ổn định cho các doanh nghiệp hoạt động. Để giải quyết mâu thuẫn này cũng như tạo sự nhất quán trong điều chỉnh cần sửa đổi những quy định tại Điều 19 Luật KDBH bằng cách: Sửa đổi điểm a khoản 2 bằng cách bỏ cụm từ "nhằm giao kết HĐBH" và bãi bỏ khoản 3. Cụ thể kiến nghị sửa đổi Điều luật này như sau:
Điều 19. Trách nhiệm cung cấp thông tin.
1. Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, DNBH có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải thích các điều
kiện, điều khoản bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm; bên mua bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm cho DNBH. Các bên chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của thông tin đó. DNBH có trách nhiệm giữ bí mật về thông tin do bên mua bảo hiểm cung cấp.
2. DNBH có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong những hành vi sau đây:
a) Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường;
b) Không thực hiện các nghĩa vụ trong việc cung cấp thông tin cho DNBH theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 18 của Luật này.
Quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên thứ ba
Như đã phân tích, một trong những nguyên nhân làm cho trục lợi BHNT khó bị phát hiện và khó có thể chứng minh một hành vi có dấu hiệu trục lợi đó là hiện trạng có một số cơ quan, đơn vị, bệnh viện… thiếu sự hợp tác với công ty BHNT trong việc cung cấp thông tin liên quan đến rủi ro gây khó khăn cho việc giám định xác minh trong BHNT.
Mặc dù, giám định, xác minh được coi như một chiếc “barie” để ngăn chặn hiện tượng gian lận, TLBH. Trên thực tế, khi giám định, xác minh, các công ty BHNT thường gặp phải những khó khăn phần lớn đến từ bên mua bảo hiểm, ĐLBH, từ chính nhân viên trong công ty, tuy nhiên, không ít những trường hợp khó khăn lại đến từ bên thứ ba mà chủ yếu là một số cơ quan chức năng như cơ sở y tế, bệnh viện, cảnh sát điều tra, cảnh sát giao thông, chính quyền địa phương và một số cơ quan đơn vị khác. Bởi chưa có quy định pháp
luật nào quy định cũng như ràng buộc về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên thứ ba cho DNBH trong việc phát hiện và giải quyết các hành vi TLBH.
Như vậy, pháp luật nước ta cần quy định về quyền của DNBH trong quá trình điều tra giám định, xác minh trong việc khai thác, giải quyết yêu cầu/bồi thường bảo hiểm và đưa ra quy định nghĩa vụ bắt buộc các cơ quan tổ chức có nghĩa vụ cung cấp các thông tin có liên quan đến người mua bảo hiểm cho các DNBH khi có yêu cầu nhằm mục đích nâng cao sự hợp tác của các cơ quan hữu quan và DNBH trong việc xử lý, giải quyết các khiếu nại, bồi thường và hạn chế các hành vi TLBH nói chung và trục lợi BHNT nói riêng.
3.1.2. Hoàn thiện quy định về thời hạn trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường
Như đã trình bày ở Chương 2, trong trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn bồi thường thì DNBH phải trả tiền bồi thường trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ về yêu cầu bồi thường (Điều 29 Luật KDBH) quy định này đã vô tình khiến cho các DNBH cũng chịu sức ép về thời hạn giải quyết bồi thường dẫn đến không có đủ thời gian và nguồn lực cần thiết để điều tra đầy đủ về những vụ có dấu hiệu trục lợi hoặc có nghi vấn TLBH trước khi quyết định việc trả tiền bảo hiểm.
Chính vì vậy, theo tác giả, pháp luật nước ta nên xem xét mở rộng thời hạn bồi thường trong trường hợp không có thỏa thuận để DNBH có đủ thời gian cần thiết trong việc thực hiện khâu giám định xác minh, điều tra đầy đủ trước khi quyết định trả tiền bảo hiểm nhằm ngăn chặn tình trạng TLBH.
3.1.3. Hoàn thiện các chế tài xử lý hành vi trục lợi bảo hiểm
Về chế tài hành chính
Như đã trình bày ở những phần trên, hiện nay các quy định của pháp luật hành chính về việc xử phạt đối với hành vi TLBH còn được thể hiện quá
sơ sài. Điều này không đảm bảo được tính răn đe của Nhà nước đối với những vi phạm, cũng như không đảm bảo được sự ổn định của thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay. Do đó, vấn đề cần thiết ở đây là việc xây dựng một khung pháp lý chặt chẽ về các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với các thủ đoạn TLBH. Cụ thể, các chế tài hành chính nên thể hiện các đặc điểm sau:
Thứ nhất, chế tài hành chính phải hướng tới việc xử phạt tất cả các thủ đoạn của trục lợi BHNT chứ không chỉ gói gọn trong một vài thủ đoạn như hiện nay. Để làm được điều này, nhà làm luật nên có sự dự liệu trước những trường hợp nào, hành vi nào được xem là TLBH, cũng như dự liệu được mức độ xảy ra của hành vi. Ví dụ: nếu cùng một hành vi cung cấp thông tin sai sự thật nhưng ở mức độ nào thì bị xử lý hành chính, ở mức độ nào thì bị xử lý hình sự. Hơn nữa, để đảm bảo được tính ngăn chặn, phòng ngừa đối với hành vi TLBH, nhà làm luật nên xây dựng quy định theo hướng cấu thành vi phạm hình thức, tức là chỉ cần có hành vi thì sẽ bị xử phạt, còn hậu quả chỉ là một yếu tố để xác định mức xử phạt đối với vi phạm và mức độ chuyển hóa thành tội phạm;
Thứ hai, các hình thức xử phạt đối với TLBH nên bảo đảm được tính răn đe của Nhà nước đối với từng hành vi cụ thể. Hay nói cách khác, việc quy định một mức xử phạt quá thấp hay hình thức xử phạt quá đơn giản sẽ không thể tương xứng được với mức độ nguy hại cao cho xã hội của hành vi TLBH. Chẳng hạn pháp luật hiện hành chỉ quy định mức phạt tiền từ 90.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành “gian dối, giả mạo tài liệu trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm đã nhận tiền bồi thường, trả tiền bảo hiểm”, trong khi trên thực tế những hành vi gian dối này có thể đem lại hàng trăm, thậm chí hàng tỷ đồng “lợi nhuận” bất chính cho người thực hiện. Theo quan điểm của tác giả, quy định về chế tài hành chính đối với TLBH nên được xây dựng theo hướng chia ra từng mức phạt cụ thể, và việc xác định
mức phạt này sẽ căn cứ vào giá trị của của từng HĐBH.
Thứ ba, chế tài hành chính cũng phải có những quy định xử lý những người tiếp tay cho người thực hiện hành vi trục lợi. Rõ ràng, trên thực tế, những trường hợp TLBH có sự tiếp tay của một người thứ ba xảy ra rất phổ biến. Đó có thể là những y sĩ, bác sĩ chủ động lập nên những bệnh án “khống” theo yêu cầu của người trục lợi, đó có thể là những cán bộ, công chức trong Cơ quan nhà nước móc nối với người trục lợi để lập nên những giấy khai tử “giả” nhằm chứng minh cho sự kiện tử vong của người được bảo hiểm, và còn nhiều trường hợp khác…Từ lẽ trên, việc hoàn thiện khung pháp lý theo hướng buộc những đối tượng tiếp tay cho những kẻ TLBH phải chịu trách nhiệm hành chính là hết sức cần thiết.
Chế tài hình sự.
Bộ luật Hình sự sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua vào tháng 11/2015 sẽ có hiệu lực ngày 01/07/2016, đã có quy định về Tội gian lận trong KDBH. Cụ thể, Điều 213 quy định:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tiền bảo hiểm từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ
30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Thông đồng với người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để giải quyết bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm trái pháp luật;
b) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin để từ chối bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra;
c) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm;