Nguyên Nhân Của Những Tồn Tại, Hạn Chế Trong Quá Trình Áp Dụng Các Biện Pháp Pháp Lý Hạn Chế Trục Lợi Bảo Hiểm Nhân Thọ Ở Việt Nam Hiện Nay

cầu của bà Thảo đòi công ty bảo hiểm Prudential Việt Nam phải bồi thường cho mình số tiền là 150 triệu đồng.

Tuy nhiên, khi vụ việc được giải quyết cấp Phúc thẩm tại Tòa Phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao thì HĐXX lại nhận định trái ngược với HĐXX cấp sơ thẩm tại Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Cụ thể, HĐXX Phúc thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu của bà Thảo và buộc phía Prudential phải đền bù cho bà.

Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao đã nhận định: “bà Thảo mua BHNT không phải vì mục đích kinh doanh, nên đây chỉ là hợp đồng dân sự. Việc Tòa sơ thẩm tỉnh Đồng Tháp áp dụng Luật KDBH xem xét vụ kiện là không phù hợp. Tòa phúc thẩm cũng cho rằng, quy định ghi trong hợp đồng “nếu kê khai không trung thực... thì hợp đồng sẽ vô hiệu” là vi phạm pháp luật. Bởi lẽ, hợp đồng chỉ vô hiệu khi vi phạm các điều cấm của pháp luật, được quy định trong Bộ luật Dân sự[23]. Theo quan điểm của tác giả, việc Tòa án nhân dân tối cao đưa ra nhận định như là hoàn toàn không chính xác. Sự không chính xác này được thể hiện ở các điểm sau:

Thứ nhất, Tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao cho rằng: “bà Thảo mua BHNT không phải vì mục đích kinh doanh, nên đây chỉ là hợp đồng dân sự” là không phù hợp với quy định của pháp luật. Căn cứ theo khoản 1 Điều 1 Luật KDBH thì: Luật KDBH “điều chỉnh tổ chức và hoạt động KDBH, xác định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm”. Bản chất của cụm từ “tham gia bảo hiểm ở đây” được hiểu là tất cả những chủ thể tham gia vào quan hệ bảo hiểm, trong đó có bao gồm cả quan hệ BHNT. Như vậy, các chủ thể tham gia BHNT sẽ là: người bảo hiểm (DNBH); người được bảo hiểm; người mua bảo hiểm và người thụ hưởng (nếu có). Cho nên, bất kỳ một tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể này và có nội dung liên quan đến hoạt động BHNT thì phải được ưu tiên áp dụng Luật KDBH để giải quyết. Hơn

nữa, hoạt động BHNT lại không thuộc các trường bị loại trừ áp dụng theo

khoản 2 Điều 1 Luật KDBH vì theo quy định này: Luật KDBH chỉ “không áp dụng đối với bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi và các loại bảo hiểm khác do Nhà nước thực hiện không mang tính kinh doanh”. Do BHNT là một hình thức bảo hiểm vừa được thực hiện bởi tư nhân, vừa được thực hiện bởi Nhà nước và nó mang mục đích kinh doanh đối với Doanh nghiệp cung cấp sản phẩm bảo hiểm nên nó đương nhiên không thuộc các trường hợp trên. Từ lẽ đó, việc Tòa án nhận định: quan hệ giữa bà Thảo và Prudential chỉ được ưu tiên điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự là không phù hợp với quy định pháp luật;

Thứ hai, đối với nhận định cho rằng: việc kê khai thông tin không trung thực không dẫn đến hệ quả “Hợp đồng vô hiệu” và do đó, quy định ghi trong hợp đồng “nếu kê khai không trung thực... thì hợp đồng sẽ vô hiệu” là vi phạm pháp luật. Theo quan điểm của người viết, nhận định trên là rất bất hợp lý. Bản chất của việc cố tình kê khai thông tin không trung thực hay che giấu thông tin là mang tính gian dối, lừa đảo. Hơn nữa, sự gian dối này nếu không bị phát hiện có thể sẽ gây ra thiệt hại rất lớn về tài sản cho DNBH. Cho nên, đây rõ ràng thuộc trường hợp được điều chỉnh tại điểm d khoản 1 Điều 22 Luật KDBH. Do đó, việc áp dụng hệ quả “hợp đồng vô hiệu” là phải được xem là chính xác.

Hơn nữa, có thể thấy, trong trường hợp này, khả năng xảy ra rủi ro đối với Nghĩa là cao hơn mức bình thường vì Nghĩa đang mang trong mình căn bệnh HIV và căn bệnh này được phát hiện trước khi HĐBH được ký kết. Mặc dù thực chất, Nghĩa qua đời là do tai nạn giao thông, nhưng ở đây rất có khả năng căn bệnh của Nghĩa đã làm tác động đến khả năng điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của mình và thậm chí rất có thể tai nạn của Nghĩa là xuất phát từ nguyên nhân Nghĩa đang dùng một loại chất kích thích hay gây nghiện.

Cho nên, lẽ ra, Tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao phải làm rõ xem cái

chết của Nghĩa có thực sự là do tai nạn hay không hay do căn bệnh hoặc chất kích thích gây ra. Thế nhưng, trên thực tế Tòa lại không tiến hành xác minh vấn đề này mà chỉ tập trung vào việc bác bỏ luận điểm của phía Prudential.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.

Vụ việc thứ hai: bà Hồ Thị Thanh Ngoan - Công ty TNHH BHNT Prudential

Ông Hồ Văn Đằng (cư trú tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang) có ký hợp đồng BHNT số 70927726 với Công ty TNHH BHNT Prudential Việt Nam và có hiệu lực từ ngày 15/11/2003, thời hạn 15 năm, ngày đáo hạn 15/11/2018, phí bảo hiểm định kỳ 3 tháng là 560.900 đồng, STBH 30.000.000 đồng, người thụ hưởng là bà Hồ Thị Thanh Ngoan (con gái ông Đằng). Trong quá trình thực hiện, ông Đằng có vi phạm nghĩa vụ nộp phí và bị Prudential đình chỉ hợp đồng 3 lần, nhưng sau đó ông đều có yêu cầu khôi phục hợp đồng và được chấp nhận. Lần sau cùng, ngày 15/5/2005, hợp đồng BHNT bị đình chỉ lần 3 nhưng đến ngày 23/7/2005, ông Đằng nộp phiếu yêu cầu khôi phục hiệu lực hợp đồng và được Prudential chấp nhận vào ngày 01/8/2005.

Các biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam hiện nay - 8

Đến ngày 11/8/2006, ông Đằng bị bệnh chết trong khi hợp đồng BHNT vẫn còn hiệu lực. Sau đó, bà Ngoan đã yêu cầu Prudential trả cho bà tiền bảo là 30.000.000 đồng. Tuy nhiên, Prudential đã từ chối trả tiền với lý do: Theo hợp đồng thì khi có yêu cầu khôi phục hiệu lực, thì người mua bảo hiểm phải khai báo đầy đủ tình trạng sức khỏe, nếu vi phạm thì bên bảo hiểm có quyền từ chối trả tiền bảo hiểm, tuy nhiên ông Đằng đã không trung thực khi khai báo khôi phục hợp đồng ở lần 2 (ngày 6/5/2005), nên Prudential không đồng ý trả STBH. Cụ thể là ngày 29/4/2005, tại phiếu yêu cầu khôi phục hiệu lực lần thứ hai, ông Đằng cam kết: “Hiện nay người được bảo hiểm đang trong tình trạng sức khỏe tốt, và không bị bất cứ bệnh tật cũng như thương tật gì khác so với thời điểm ký hồ sơ yêu cầu BHNT. Trong thời gian từ đó đến

nay, người được bảo hiểm chưa bao giờ đi làm xét nghiệm y khoa, không tham gia hoặc xét thấy không cần phải tham gia tư vấn hay điều trị gì liên quan tới bệnh ung thư, bệnh AIDS cũng như không bị bất cứ tai nạn nào cần phải chăm sóc y tế…”.Tuy nhiên, tại hồ sơ bệnh án nội khoa của bệnh viện Đa khoa Nhật Tân ngày 18/3/2006, chính ông Hồ Văn Đằng thừa nhận tình trạng bệnh “Bệnh khởi phát 01 năm nay. Khám bệnh ở thành phố, chẩn đoán và điều trị xơ gan, suy thận, tai biến mạch máu não” và đã được bệnh viện tiếp tục điều trị.

Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 10/2007/KDTM-ST ngày 10/3/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, căn cứ Điều 13, 14, 15, 17, 18, 39 Luật KDBH; Điều 122 và các Điều từ 127 đến 138, Điều 410 Bộ luật dân sự năm 2005 đã quyết định chấp nhận yêu cầu của bà Ngoan và do đó, Prudential phải trả tiền bảo hiểm [26].

Trong bản án này, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang đã có sai lầm khi không áp dụng Điều 16 của Luật KDBH, theo đó bên bảo hiểm có quyền từ chối trả tiền nếu trong hợp đồng BHNT có thỏa thuận rõ ràng về những trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm và Điều 19 về trách nhiệm cung cấp thông tin trung thực của bên mua bảo hiểm. Trong bản án số 59/2007/KDTM

-PT ngày 25/6/2007 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã nhận định việc Prudential từ chối trả tiền bảo hiểm là có căn cứ, nhưng cũng không chỉ rõ là căn cứ vào quy định nào.

2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong quá trình áp dụng các biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam hiện nay

Những tồn tại, hạn chế từ thực tiễn thi hành các biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi BHNT xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, từ nguyên


nhân về khả năng áp dụng pháp luật của một số chủ thể thực hiện biện pháp

53

pháp lý hạn chế trục lợi BHNT, về ý thức xã hội và nhận thức của người dân… đến các nguyên nhân về mặt pháp lý do những hạn chế, khiếm khuyết trong bản thân pháp luật hiện hành điều chỉnh về TLBH. Có thể kể đến một số nguyên nhân cơ bản sau:

2.3.1. Nguyên nhân từ phía pháp luật điều chỉnh về trục lợi bảo hiểm nhân thọ


2.3.1.1. Hai cách xử lý khác nhau về hậu quả pháp lý của việc cung cấp thông tin sai sự thật của người mua bảo hiểm khi giao kết hợp đồng bảo hiểm

Như đã phân tích ở Chương 1, rõ ràng có một sự khác biệt rất lớn giữa chế tài được thể hiện tại khoản 2 Điều 19 và điểm d khoản 1 Điều 22 Luật KDBH. Theo đó, Điều 19 hướng tới chế tài là “đình chỉ hợp đồng” và buộc người tham gia bảo hiểm trả phí tính đến thời điểm đình chỉ, trong khi Điều 22 hướng đến chế tài “Hợp đồng vô hiệu”. Rõ ràng, cùng một vấn đề đã có hai cách xử lý khác nhau và các cách xử lý này đều cùng được quy định trong Luật KDBH. Do vậy, vấn đề ở đây là Tòa án nên áp dụng quy định nào?

Có thể thấy, hệ quả của việc áp dụng hai chế tài trên là hoàn toàn khác nhau. Cụ thể, nếu áp dụng chế tài “đình chỉ hợp đồng” thì “Hợp đồng chấm dứt từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng”, tức là tại thời điểm đình chỉ hợp đồng, các bên sẽ không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình cho bên còn lại, cũng như sẽ không được hưởng quyền lợi từ việc thực hiện nghĩa vụ của bên còn lại đối với mình. Tuy nhiên, phần nghĩa vụ mà các bên đã thực hiện trước đó sẽ được giữ nguyên. Trái lại, khi áp dụng chế tài “Hợp đồng vô hiệu” thì quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ không phát sinh, thay đổi, chấm dứt kể từ thời điểm xác lập, “các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật

thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”. Do đó, việc xác định chế tài nào là chính xác nhất trong hai quy định tại Điều 19 hay Điều 22 Luật KDBH là hết sức quan trọng.

Do việc trốn tránh nghĩa vụ cung cấp thông tin hay kê khai thông tin sai sự thật được xem là một sự “lừa dối”, nên áp dụng Điều 132 Bộ luật dân sự: “giao dịch vô hiệu do bị lừa dối, đe doạ”, nên hành vi này sẽ dẫn đến hệ quả là “giao dịch dân sự vô hiệu”. Từ lẽ trên, Điều 22 Luật KDBH quy định về hệ quả “Hợp đồng vô hiệu” đối với hành vi cung cấp thông tin sai lệch nhằm lừa dối DNBH trước khi giao kết hợp đồng là phù hợp với các quy định của pháp luật về Hợp đồng dân sự. Cho nên, với lập luận này, có thể hiểu rằng: việc cung cấp thông tin sai sự thật hoặc cố tình che giấu thông tin nhằm giao kết HĐBH không thể dẫn đến hệ quả “đình chỉ thực hiện hợp đồng” như Điều 19 Luật KDBH đã quy định.

2.3.1.2. Quy định về thời hạn trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường đã tạo sức ép cho doanh nghiệp bảo hiểm

Để bảo vệ quyền lợi cho người được bảo hiểm, Điều 29 Luật KDBH quy định: Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, DNBH phải bồi thường theo thời hạn đã thỏa thuận trong HĐBH, trong trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn thì DNBH phải trả tiền bồi thường trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ về yêu cầu bồi thường. Đây là thời gian ấn định để DNBH thực hiện nghĩa vụ bồi thường của mình. Đồng thời quy định này cũng có ý nghĩa ngăn ngừa việc DNBH cố tình không đưa điều khoản về thời hạn trả tiền bồi thường trong hợp đồng nhằm kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ bồi thường để chiếm dụng vốn của người được bảo hiểm.

Tuy nhiên, quy định này vô hình chung cũng khiến cho các DNBH cũng chịu sức ép về thời hạn giải quyết bồi thường dẫn đến không có đủ thời gian và nguồn lực cần thiết để điều tra đầy đủ về những vụ có dấu hiệu trục lợi hoặc có nghi vấn TLBH trước khi quyết định việc trả tiền bảo hiểm.

2.3.1.3. Chế tài xử lý hành vi trục lợi bảo hiểm


Xét dưới góc độ pháp lý, TLBH là hành vi vi phạm pháp luật. Do đó, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm, hậu quả gây ra, phương thức và thủ đoạn thực hiện... mà người thực hiện hành vi vi phạm có thể bị xử lý về dân sự, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Về dân sự


Luật KDBH không đề câp tr ực tiếp đến TLBH mà chỉ đề cập đ ến

“nghĩa vụ cung cấp thông tin” và “Quyền c ủa DNBH” từ ch ối chi trả, bồi thường khi bên mua bảo hiểm cung cấp thông tin không trung th ực. Như đã

phân tích ở trên, viêc

ch ế tài chỉ dừ ng l ại ở viêc

DNBH đư ợc từ ch ối giao

dịch hoăc

̀ ch ối thực hiên

nghĩa v ụ dân sự theo hợp đồng (bồi thường/ trả

tiền b ảo hiểm ) bằng cách tuyên bố “hợp đồng vô hiêụ ” (Điều 22, Luât

KDBH) hoăc

“đình chỉ hợp đồng” (Điều 19, Luâṭ KDBH). Việc có 2 quy định

về chế tài khác nhau cho cùng m ột vấn đề cũng d ẫn đến viêc

khó khăn cho

viêc x ử lý tranh chấp mà trên th ực tế đa số trường hợp, phần thiêṭ bao gi ờ

cũng thuộc về DNBH theo phán quyết của Tòa án.

Về hành chính


Mặc dù Nghị định số 98/2013/NĐ-CP không đề câp

đ ến khái niêm

hay

đưa ra một định nghĩa nào rõ ràng về TLBH. Tuy nhiên chế tài hành chính đối với hành vi TLBH lại được quy định tại Nghị định 98/2013/NĐ-CP Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KDBH, kinh doanh sổ số.

Tuy nhiên, Nghị định 98/2013/NĐ-CP chỉ quy định chủ yếu xử phạt hành chính đối với các hành vi gian dối của phía DNBH chứ không xử lý đối với hành vi gian dối của khách hàng bảo hiểm. Chỉ có duy nhất m ột quy định

đăṭ ra ch ế tài đối với một trong những thủ đoạn của hoạt động TLBH từ phía khách hàng. Cụ thể, theo Khoản 3 Điều 14 Nghị định 98/2013/NĐ-CP: Trong

trường hợp người được bảo hiểm hoăc ngư ời mua bảo hiêm̉ “gian d ối, giả

mạo tài liêu

trong h ồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền b ảo hiểm đã nhân

tiền

bồi thường, trả tiền b ảo hiểm” thì sẽ b ị “phạt tiền từ 90.000.000 đồng đến

100.000.000 đồng”. Như vây

, theo như nội dung của quy định này thì ngư ời

thực hiên

hành vi “gian d ối, giả mạo tài liêu

trong h ồ sơ yêu cầu bồi thường,

trả tiền bảo hiểm” chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính nếu như hành vi đó thực

tế đã gây ra thiêṭ h ại đối với DNBH (đã nhân đư ợc tiêǹ b ồi thường, tiêǹ bảo

hiểm trả). Trên thực tế, các thủ đoạn trục lợi bảo hiểm diễn ra một cách rất đa dạng, với nhiều cách thức khác nhau, đó có thể là hành vi “gian d ối, giả mạo tài liêụ ”, nhưng cũng có thể là hành vi tr ốn tránh nghĩa vụ cung cấp thông tin hay cố bóp méo thông tin…

Bên cạnh việc quy định hình thức xử phạt chính là phạt tiền và các hình thức xử phạt bổ sung tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm trong lĩnh vực bảo hiểm nói chung trong đó có TLBH còn có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại Khoản 1 Điều 44 Nghị định 98/2013/NĐ-CP bao gồm: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; Buộc cải chính những thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn; Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính; Buộc tiêu hủy tài liệu gian dối, giả mạo; Buộc đình chỉ chức danh đã được DNBH, doanh nghiệp tái bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, chi nhánh DNBH phi nhân thọ nước ngoài bổ nhiệm; Buộc bãi nhiệm chức danh người

quản trị, điều hành, chuyên gia tính toán đã được Bộ Tài chính phê chuẩn;

Xem tất cả 100 trang.

Ngày đăng: 19/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí