L/C độc lập với hợp đồng cơ sở và hàng hóa: Về bản chất, L/C là một giao dịch hoàn toàn độc lập với hợp đồng ngoại thương hoặc hợp đồng khác mà hợp đồng này là cơ sở để hình thành giao dịch L/C. Trong mọi trường hợp, ngân hàng không liên quan đến hoặc bị ràng buộc vào hợp đồng như vậy, ngay cả khi L/C có bất cứ dẫn chiếu nào đến hợp đồng này. Như vậy, L/C có tính chất quan trọng, nó hình thành trên cơ sở của hợp đồng ngoại thương, nhưng sau khi được thiết lập, nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng này. Một khi L/C đã được mở và đã được các bên chấp nhận, thì cho dù nội dung của L/C có đúng với hợp đồng ngoại thương hay không, cũng không làm thay đổi quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có liên quan đến L/C.
L/C chỉ giao dịch bằng chứng từ và thanh toán chỉ căn cứ vào chứng từ: Các ngân hàng, chỉ trên cơ sở chứng từ, kiểm tra việc xuất trình để quyết định xem trên bề mặt của chứng từ có tạo thành một xuất trình phù hợp không. Như vậy, các chứng từ trong giao dịch L/C có tầm quan trọng đặc biệt, nó là bằng chứng về việc giao hàng của người bán, là đại diện cho giá trị hàng hóa đã được giao, do đó, chúng trở thành căn cứ để ngân hàng trả tiền, là căn cứ để nhà nhập khẩu hoàn trả tiền cho ngân hàng, là chứng từ đi nhận hàng của nhà nhập khẩu,…Việc nhà xuất khẩu có thu được tiền hay không, phụ thuộc duy nhất vào xuất trình chứng từ có phù hợp; đồng thời, ngân hàng cũng chỉ trả tiền khi bộ chứng từ xuất trình phù hợp, nghĩa là ngân hàng không chịu trách nhiệm về sự thật của hàng hóa mà bất cứ chứng từ nào đại diện.
L/C yêu cầu tuân thủ chặt chẽ của bộ chứng từ: Vì giao dịch chỉ bằng chứng từ và thanh toán chỉ căn cứ vào chứng từ, nên yêu cầu tuân thủ chặt chẽ của chứng từ là nguyên tắc cơ bản của giao dịch L/C. Để được thanh toán, người xuất khẩu phải lập được bộ chứng từ phù hợp, tuân thủ chặt chẽ các điều khoản và điều kiện của L/C, bao gồm số loại, số lượng mỗi loại và nội dung chứng tư phải đáp ứng được chức năng của chứng từ yêu cầu.
1.2.2. Các bên tham gia phương thức tín dụng chứng từ
Người xin mở thư tín dụng (The Applicant): là người nhập khẩu hàng hóa, người mua.
Ngân hàng mở thư tín dụng (The Isuing Bank Or Opening Bank): là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu, cấp tín dụng cho người nhập khẩu.
Người hưởng lợi (The Beneficiary): là người xuất khẩu hàng hóa, người bán hoặc bất cứ người nào khác mà người xuất khẩu chỉ định.
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thành Đô - 1
- Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thành Đô - 2
- Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Hiệu Quả Hoạt Động Thanh Toán Quốc Tế Theo Phương Thức Tín Dụng Chứng Từ
- Giới Thiệu Chung Về Ngân Hàng Tmcp Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam- Chi Nhánh Thành Đô
- Cơ Cấu Nguồn Vốn Huy Động Theo Loại Tiền Của Bidv Thành Đô Giai Đoạn 2011- 2013
Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.
5
Ngân hàng thông báo thư tín dụng (The Advising Bank): là ngân hàng đại lý của ngân hàng mở thư tín dụng ở nước người xuất khẩu hoặc là ngân hàng phục vụ người xuất khẩu.
Ngân hàng xác nhận (The Confirming Bank): là ngân hàng tiếp nhận L/C từ ngân hàng phát hành L/C gửi đến và có nhiệm vụ thông báo cho người xuất khẩu, thường là ngân hàng xác nhận trách nhiệm của ngân hàng mở L/C, bảo đảm việc chi trả tiền cho người xuất khẩu trong trường hợp ngân hàng mở L/C không đủ khả năng thanh toán. Ngân hàng xác nhận có thể là ngân hàng thông báo thư tín dụng hoặc là một ngân hàng khác do người xuất khẩu yêu cầu. Ngân hàng phát hành phải trả phí xác nhận rất cao và phải đặt cọc trước, ngân hàng xác nhận thường là một ngân hàng lớn, có uy tín trên thị trường tín dụng và tài chính quốc tế.
Ngân hàng thanh toán (The Paying Bank): có thể là ngân hàng mở L/C hoặc là một ngân hàng khác được ngân hàng mở L/C chỉ định thay mình thanh toán cho người nhập khẩu. Nếu địa điểm trả tiền quy định tại nước người xuất khẩu thì ngân hàng trả tiền thường là ngân hàng thông báo. Chức năng của ngân hàng thông báo giống như ngân hàng mở thư tín dụng khi nhận bộ chứng từ của người xuất khẩu gửi đến.
1.2.3. Thư tín dụng chứng từ
1.2.3.1. Định nghĩa
Tại Điều 2, UCP 600, tín dụng chứng từ được định nghĩa như sau: “Credit means any arrangement, however named or described, that is irrevocable and thereby constitutes a definite undertaking of the issuing bank to honour a complying presentation”. “ Tín dụng chứng từ là một thỏa thuận bất kỳ, cho dù được gọi tên hoặc mô tả như thế nào, thể hiện một cam kết chắc chắn và không hủy ngang của ngân hàng phát hành về việc thanh toán khi xuất trình phù hợp”.
So với các phương thức thanh toán khác, thanh toán bằng L/C có ưu điểm ở chỗ:
Đối với nhà xuất khẩu: được ngân hàng phát hành L/C (không phải nhà nhập khẩu) bảo đảm thanh toán chắc chắn nếu xuất trình được bộ chứng từ xuất khẩu phù hợp.
Đối với nhà nhập khẩu: được ngân hàng phát hành L/C bảo đảm không phải trả tiền chừng nào chưa nhận được bộ chứng từ nhập khẩu phù hợp.
Rõ ràng là, nhà nhập khẩu có cơ sở tin chắc chắn rằng, ngân hàng phát hành sẽ không trả tiền trước khi nhà xuất khẩu giao hàng, bởi vì điều này đòi hỏi nhà xuất
6
khẩu phải xuất trình bộ chứng từ giao hàng; còn nhà xuất khẩu tin chắc chắn rằng sẽ nhận được tiền hàng xuất khẩu nếu trao cho ngân hàng phát hành bộ chứng từ phù hợp với quy định của L/C. Như vậy, phương thức L/C đã dung hòa được lợi ích và rủi ro giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu, đây là ưu điểm vượt trội của phương thức này.
1.2.3.2. Nội dung chính của thư tín dụng chứng từ
Số hiệu của thư tín dụng: mỗi L/C đều có số hiệu riêng do ngân hàng phát hành cấp, để các bên tham gia trao đổi thư từ, điện tín có liên quan đến L/C, nhằm tạo thuận lợi trong trao đổi thông tin giữa các bên có liên quan.
Ðịa điểm phát hành thư tín dụng: là nơi ngân hàng mở phát hành thư tín dụng để cam kết trả tiền cho người hưởng lợi. Ðịa điểm này có ý nghĩa quan trọng, vì nó liên quan đến việc tham chiếu luật lệ áp dụng, để giải quyết những bất đồng xảy ra (nếu có).
Ngày phát hành L/C: là ngày bắt đầu phát sinh và có hiệu lực sự cam kết của ngân hàng mở L/C đối với người hưởng lợi; là ngày ngân hàng mở chính thức chấp nhận đơn xin mở của người nhập khẩu; là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C và cũng là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu có mở L/C đúng thời hạn không,...
Tên, địa chỉ của những người liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ:
Người yêu cầu mở thư tín dụng;
Người hưởng lợi;
Ngân hàng mở thư tín dụng;
Ngân hàng thông báo;
Ngân hàng trả tiền (nếu có);
Ngân hàng xác nhận (nếu có).
Số tiền của thư tín dụng: số tiền phải được ghi vừa bằng số và bằng chữ và phải thống nhất với nhau. Tên đơn vị tiền tệ phải ghi cụ thể, chính xác. Để tránh gây khó khăn trong việc giao hàng và nhận tiền của bên bán, không nên ghi số tiền dưới dạng một con số tuyệt đối.
Thời hạn hiệu lực của thư tín dụng: là thời hạn mà ngân hàng mở cam kết trả tiền cho người hưởng lợi nếu người này xuất trình được bộ chứng từ trong thời hạn hiệu lực đó và phù hợp với quy định trong thư tín dụng đó.
Thời hạn trả tiền của thư tín dụng: liên quan đến việc trả tiền ngay hay trả tiền về sau (trả chậm). Ðiều này hoàn toàn tuỳ thuộc vào quy định của hợp đồng thưong mại đã ký kết. Thời hạn trả tiền có thể nằm trong thời hạn hiệu lực
7
của thư tín dụng (nếu trả tiền ngay) hoặc nằm ngoài thời hạn hiệu lực (nếu trả chậm). Trong trường hợp trả chậm, cần lưu ý là hối phiếu có kỳ hạn phải được xuất trình để chấp nhận trong thời hạn hiệu lực của thư tín dụng.
Thời hạn giao hàng: được ghi cụ thể trong thư tín dụng và cũng do hợp đồng ngoại thương quy định. Ðây là thời hạn quy định bên bán phải chuyển giao xong hàng cho bên mua, kể từ khi thư tín dụng có hiệu lực. Thời hạn giao hàng liên quan chặt chẽ với thời hạn hiệu lực của thư tín dụng.
Những nội dung liên quan tới hàng hoá: tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá cả, quy cách phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu,... cũng được ghi cụ thể trong nội dung thư tín dụng.
Những nội dung về vận tải và giao nhận hàng hoá: điều kiện cơ sở về giao hàng (FOB, CIF...), nơi giao hàng, cách vận chuyển, cách giao hàng,... cũng được thể hiện đầy đủ và cụ thể trong nội dung thư tín dụng.
1.2.3.3. Một số loại thư tín dụng chứng từ
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ ưu việt hơn hẳn những phương thức thanh toán quốc tế khác. Tuy vậy, hiệu quả của phương thức này sẽ được thể hiện đầy đủ hơn khi biết lựa chọn loại thư tín dụng phù hợp với yêu cầu của từng tình huống thương mại cụ thể. Theo quy ước quốc tế, thư tín dụng bao gồm nhiều loại:
Thư tín dụng không thể hủy bỏ (Irrevocable Letter of Credit): Là loại thư tín dụng sau khi đã mở ra thì ngân hàng mở L/C không được sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ trong thời hạn hiệu lực của nó, trừ khi có sự thỏa thuận khác của các bên tham gia thư tín dụng. Ngày nay hầu hết L/C được mở theo hình thức không huỷ ngang.
Thư tín dụng không thể hủy bỏ có xác nhận (Confirmed Irrevocable L/C): Là loại thư tín dụng không thể hủy bỏ được một ngân hàng khác xác nhận đảm bảo trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở L/C. Do có hai ngân hàng đứng ra cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nên đây là loại thư tín dụng đảm bảo nhất cho người xuất khẩu.
Thư tín dụng không thể hủy bỏ, miễn truy đòi (Irrevocable without recourse L/C): Là loại L/C mà sau khi người xuất khẩu đã được trả tiền thì ngân hàng mở L/C không còn quyền đòi lại tiền người xuất khẩu trong bất cứ trường hợp nào. Khi sử dụng loại này, người xuất khẩu phải ghi câu "miễn truy đòi người ký phát" lên hối phiếu và trong L/C. Loại này cũng được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế.
8
Thư tín dụng chuyển nhượng (Transerable L/C): Là thư tín dụng không thể hủy bỏ trong đó quy định quyền của người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu ngân hàng mở L/C chuyển nhượng toàn bộ hay một phần số tiền của L/C cho một hay nhiều người khác. L/C chuyển nhượng chỉ được chuyển nhượng một lần. Chi phí chuyển nhượng thường do người hưởng lợi đầu tiên chịu.
Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C): Là loại L/C không thể hủy bỏ sau khi sử dụng xong hoặc đã hết thời hạn hiệu lực thì nó lại tự động có giá trị như cũ và cứ như vậy nó tuần hoàn cho đến khi nào tổng giá trị hợp đồng được thực hiện. Thư tín dụng tuần hoàn cần ghi rõ ngày hết hiệu lực cuối cùng và số lần tuần hoàn và giá trị tối thiểu của mỗi lần đó. Nếu việc tuần hoàn căn cứ vào thời hạn hiệu lực trong mỗi lần tuần hoàn thì phải ghi rõ có cho phép số tiến của L/C trước cộng dồn vào những L/C kế tiếp hay không, nếu cho phép thì gọi nó là tuần hoàn tích lũy (Cumulative Revolving L/C).
Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C): Sau khi nhận được L/C do người nhập khẩu mở cho mình hưởng, người xuất khẩu dùng L/C này để thế chấp mở một L/C khác cho người hưởng lợi khác với nội dung gần giống như L/C ban đầu, L/C mở sau gọi là L/C giáp lưng. L/C gốc và L/C giáp lưng giống nhau, nhưng xét riêng chúng có những điểm cần phải phân biệt về số chứng từ của L/C giáp lưng nhiều hơn L/C gốc, kim ngạch L/C giáp lưng phải nhỏ hơn L/C gốc, khoản chênh lệch này do người trung gian hưởng dùng để trả chi phí mở L/C giáp lưng và phần hoa hồng của họ, thời hạn giao hàng của L/C giáp lưng phải sớm hơn L/C gốc. Nghiệp vụ thư tín dụng giáp lưng rất phức tạp, nó đòi hỏi phải có sự kết hợp khéo léo và chính xác các điều kiện của L/C gốc và L/C giáp lưng, nhất là các vấn đề có liên quan đến vận đơn và các chứng từ hàng hóa khác.
1.2.4. Quy trình nghiệp vụ của phương thức tín dụng chứng từ
(8)
(9)
(2)
(3)
(5)
(4)
(6)
Ngân hàng thông báo (Advising Bank)
Sơ đồ 0.1. Quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ
(1) (9) (10)
(Hợp đồng)
9
Người yêu cầu mở L/C
(Applicant)
Ngân hàng phát hành (Issuing Bank)
Người thụ hưởng (Beneficiary)
(1) Sau khi ký hợp đồng thương mại quốc tế, người mua yêu cầu ngân hàng của mình mở một thư tín dụng đồng thời nộp tiền lệ phí và tiền ký quỹ mở thư tín dụng để đảm bảo sau này phải thanh toán số tiền còn lại của kim ngạch thư tín dụng.
(2) Ngân hàng của người mua thông báo cho ngân hàng của người bán về việc mở thư tín dụng.
(3) Ngân hàng của người bán thông báo cho người bán về việc đã mở thư tín dụng.
(4) Người bán kiểm tra thư tín dụng, nếu thấy phù hợp với hợp đồng sẽ tiến hành giao hàng.
(5) Sau khi giao hàng, người bán thu thập bộ chứng từ thanh toán và xuất trình cho ngân hàng phục vụ người xuất khẩu.
(6) Ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu nếu đóng vai trò là ngân hàng thanh toán sẽ kiểm tra bộ chứng từ, nếu hợp lệ sẽ tiến hành thanh toán.
(7) Ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu trao chứng từ cho ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu.
(8) Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu phù hợp với L/C thì hoàn trả tiền cho ngân hàng thông báo.
(9) Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu thông báo cho nhà nhập khẩu biết bộ chứng từ đã đến và đề nghị họ làm thủ tục thanh toán.
(10) Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp có thể thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Ngân hàng trao lại bộ chứng từ cho người nhập khẩu để đi nhận hàng.
Nhận xét:
Các chi phí trong phương thức tín dụng chứng từ là rất cao so với các phương thức thanh toán khác. Thông thường có các loại chi phí như phí mở L/C, phí sửa đổi L/C, phí thực hiện L/C,... Tuy nhiên đây là phương thức thanh toán an toàn nhất, phương thức tín dụng chứng từ nên được sử dụng trong các trường hợp mà bên mua và bên bán chưa có sự tin cậy lẫn nhau hoặc là những giao dịch với quy mô thanh toán lớn.
1.2.5. Các văn bản pháp lý điều chỉnh phương thức tín dụng chứng từ
1.2.5.1. Quy tắc và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP)
Ngày 25/10/2006 ICC đã công bố UCP 600 có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2007.
10
UCP đã được hơn 175 nước áp dụng trong đó có Việt Nam. Khác với luật quốc gia hay công ước quốc tế, UCP không tự động áp dụng để điều chỉnh hoạt động thanh toán TDCT mà mang tính chất pháp lý tuỳ ý. Các bên tham gia có quyền lựa chọn có hay không dùng UCP để điều chỉnh hoạt động thanh toán TDCT. Nhưng một khi các bên đã đồng ý áp dụng UCP thì các điều khoản áp dụng của UCP sẽ ràng buộc nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên tham gia.
Một điểm cần lưu ý là UCP ban hành sau không phủ nhận các nội dung của UCP trước đó. Do đó các bên có thể thoả thuận lựa chọn một UCP nào đó, nhưng điều quy định bắt buộc là phải dẫn chiếu nó trong L/C. Chỉ UCP bản gốc bằng tiếng Anh mới có giá trị pháp lý giải quyết các tranh chấp, các bản dịch khác chỉ có giá trị tham khảo. Điều này có nghĩa là UCP 600 ra đời không thay thế hoàn toàn UCP 500 mà chỉ bổ sung thêm nội dung cho UCP 500, vì vậy các doanh nghiệp, các ngân hàng hiện nay hoàn toàn có thể lựa chọn UCP 500 (nếu hai bên thống nhất lựa chọn).
1.2.5.2. Tập quán NH tiêu chuẩn quốc tế kiểm tra chứng từ theo L/C số 681 – 1/10/2008 – ISBP
ISBP là từ viết tắt tiếng Anh “International Standard Banking Practice for the Examination of Documents Under Documentary Credits”, tiếng Việt gọi là “Tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế dùng để kiểm tra chứng từ trong phương thức tín dụng chứng từ” dùng để kiểm tra chứng từ theo thư tín dụng phiên bản số 681, do ICC ban hành năm 2007.
Văn kiện này ra đời nhằm cụ thể hóa những quy định của UCP 600, thể hiện sự nhất quán với UCP cũng như các quan điểm và các quyết định của ủy Ban Ngân Hàng của ICC. Văn bản này không sửa đổi UCP, mà chỉ giải thích rõ ràng cách thực hiện UCP đối với những người làm thực tế liên quan đến tín dụng chứng từ.
1.2.5.3. Quy tắc thực hành về tín dụng dự phòng quốc tế ISP 98
ISP 98 – International Standby Practices được phòng Thương mại quốc tế ban hành, cung cấp các quy tắc về thực hành nghiệp vụ ngân hàng tiêu chuẩn đối với thư tín dụng và các cam kết độc lập có liên quan như thư tín dụng dự phòng. ISP98 là một sản phẩm mang tính cách mạng về áp dụng UCP đối với thư tín dụng dự phòng. Tuy nhiên, thư tín dụng dự phòng vẫn có thể được phát hành theo UCP nếu các bên quyết định như vậy.
1.2.5.4. Bản phụ trương UCP 600 về việc xuất trình chứng từ điện tử eUCP 1.1
Bản phụ trương UCP 600 là tập quán quốc tế bổ sung cho UCP 600 nhằm điều chỉnh việc chỉ xuất trình chứng từ điện tử hoặc kết hợp với việc xuất trình chứng từ
11
bằng văn bản. Tại khoản a điều e2 – eUCP 1.1 – Mối quan hệ của eUCP và UCP quy định “Một thư tín dụng có tham chiếu eUCP (“thư tín dụng eUCP”) thì cũng là tham chiếu UCP mà không cần phải diễn đạt thêm là bộ phận của UCP”.
1.3. Hiệu quả của hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng thương mại
Khái niệm hiệu quả của hoạt động thanh toán quốc tế:
Đối với hoạt động TTQT thị trường chính là nơi chỉ ra hoạt động TTQT của ngân hàng có đạt hiệu quả hay không. Nhưng hiệu quả hoạt động TTQT của ngân hàng là gì? Có những nhân tố nào trên thị trường ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động TTQT và ngân hàng cần làm như thế nào để nâng cao hiệu quả hoạt động TTQT? Làm rõ được bản chất hiệu quả hoạt động TTQT, những biểu hiện của nó và trả lời được những câu hỏi trên có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn. Vì có hiểu đúng được bản chất của hiệu quả hoạt động TTQT thì mới có cơ sở để xác định các tiêu chuẩn và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả TTQT, để từ đó xác định phương pháp nâng cao hiệu quả hoạt động TTQT.
Khi đánh giá hiệu quả hoạt động TTQT của NHTM cần phải xem xét toàn diện trên cả 3 giác độ: nền kinh tế, ngân hàng và khách hàng bởi vì giữa 3 yếu tố này có mối quan hệ mật thiết với nhau:
Đối với nền kinh tế: hiệu quả hoạt động TTQT được đánh giá thông qua việc đẩy mạnh hoạt động thanh toán XNK , thúc đẩy hoạt động đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp, thúc đẩy và mở rộng các hoạt động dịch vụ như du lịch, hợp tác quốc tế, tăng cường thu hút kiều hối và các nguồn lực tài chính khác, tăng thu cho ngân sách, giải quyết việc làm góp phần cải thiện cán cân thanh toán, ổn định nền kinh tế
Đối với ngân hàng thương mại: hiệu quả hoạt động TTQT được đánh giá thông qua việc phát triển các nghiệp vụ ngân hàng, thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển, mở rộng thị trường hoạt động ngoài lãnh thổ Việt Nam, đa dạng hóa nguồn thu nhập, tăng doanh thu từ dịch vụ TTQT, tăng thu nhập cho ngân hàng. Khi cung cấp những dịch vụ TTQT, ngoài những khoản tiền phí theo biểu phí dịch vụ, ngân hàng sẽ có cơ hội thu được các khoản lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ hoặc chuyển đổi ngoại tệ khi các bên tham gia hoạt động TTQT có nhu cầu mua bán hoặc chuyển đổi hoặc cơ hội chiếm dụng vốn của các doanh nghiệp trong suốt thời gian thanh toán.
12