Tuy
một
nói là có thể chuyển nhượng nhưng loại L/C này chỉ có thể chuyển nhượng được lần duy nhất và chi phí chuyển nhượng thường do người hưởng lợi ban đầu chịu.
L/C giáp lưng (Back to Back L/C): Đây là loại L/C do người NK mở cho mình hưởng, nhà XK căn cứ vào nội dung L/C và dùng chính L/C này để thế chấp mở một L/C khác cho người hưởng lợi khác với nội dung gần giống L/C ban đầu.
L/C tuần hoàn (Revolving L/C): Là L/C không thể hủy ngang mà sau khi đã sử dụng hết giá trị của nó hoặc đã hết thời hạn hiệu lực thì nó tự động có giá trị như cũ và tiếp tục được sử dụng một cách tuần hoàn trong một thời hạn nhất định cho đến khi tổng giả trị hợp đồng được thực hiện. Đây là loại L/C tạo điều kiện tốt nhất cho nhà NK mua được hàng hóa trong suốt thời gian dài và không cần mở nhiều lần L/C cho cùng một mặt hàng. L/C tuần hoàn thường được dùng trong những trường hợp: Đối với các mặt hàng thường xuyên, định kỳ, số lượng lớn, giao nhiều lần trong một thời gian nhất định hoặc các bên mua bán quen thuộc và đáng tin cậy.
L/C điều khoản đỏ (Red Clause L/C): Là L/C mà NHPH cho phép NHTB ứng trước cho người thụ hưởng để mua hàng hóa, nguyên liệu phục vụ sản xuất hàng hóa theo L/C đã mở. L/C điều khoản đỏ được sử dụng đối với các mặt hàng nông sản, lâm, thổ sản có thời vụ như cà phê, gạo, lúc , hạt điều, … và một số mặt hàng khác. Ưu điểm khi sử dụng L/C điều khoản đỏ với bên người XK là nhận một số tiền trước khi giao hàng tùy theo cam kết và thỏa thuận trước để chuẩn bị hàng xuất, giảm được khó khăn về tài chính và có thị trường xuất ổn định. Đối với bên người NK, tuy phải mở L/C tương đối sớm trước khi giao hàng và chịu chi phí cũng như rủi ro do đã ứng trước tiền hàng nhưng họ được nhận hàng với giá thành rẻ hơn và có nguồn hàng ổn định.
Từ những hạn chế của hai phương thức thanh toán được nêu ở trên là phương thức chuyển tiền và phương thức nhờ thu, phương thức tín dụng chứng đã khắc phục và có được những ưu điểm như sau: Đối với người XK thì đây là phương thức thanh toán mà rủi ro của người XK là ít nhất. Người XK sẽ được một bên thứ ba (NHPH) không phải là người NK đứng ra đảm bảo thanh toán chắc chắn nếu người XK xuất trình đầy đủ bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C đưa ra. Nếu trường hợp, người NK không thanh toán cho lô hàng hóa này thì người XK vẫn còn nguyên hàng hóa thuộc sở hữu của mình. Thêm vào đó, người XK cũng có thể dùng L/C như một phương thức tài trợ khi dùng bộ chứng từ hàng hóa vào nghiệp vụ chiết khấu hoặc chuyển nhượng. Người NK trong phương thức này được NHPH đảm bảo việc trả tiền chỉ diễn ra khi NHPH có được đầy đủ bộ chứng từ phù hợp theo yêu cầu của L/C từ người XK. Thêm vào đó, người NK có thể kiểm soát phần nào thời gian giao hàng, số lượng và chủng loại hàng hóa được giao đến thông qua các chứng từ được gửi tới NHPH. Đối với ngân
13
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội tại Hội sở chính - 1
- Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội tại Hội sở chính - 2
- Quy Trình Nghiệp Vụ Chuyển Tiền
- Khái Quát Về Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quân Đội – Mbbank
- Tình Hình Hoạt Động Kinh Doanh Trong Giai Đoạn 2013-2015
- Quy Trình Các Phương Thức Thanh Toán Tại Hội Sở Chính – Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quân Đội
Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.
hàng tham gia trong phương thức thanh toán này, có thể nói ưu điểm đầu tiên của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ cũng như tất cả các phương thức thanh toán khác, ngân hàng đều được hưởng các khoản phí phát sinh. Ngoài ra, ngân hàng cũng chiếm dụng được từ người NK khoản tiền ký quỹ để mở L/C khá lớn. Cùng với nghiệp vụ thanh toán theo L/C, ngân hàng còn thực hiện thêm một số nghiệp vụ liên quan như cho vay xuất khẩu, bảo lãnh, mua bán ngoại tệ, … . Ngoài những lợi ích về kinh tế cho ngân hàng, thông qua phương thức này, ngân hàng còn mở rộng được quan hệ và mạng lưới ngân hàng đại lý cũng như khẳng định được uy tín của ngân hàng mình trên thị trường tài chính quốc tế.
Mặt dù phương thức L/C đã giúp cải thiện nguy cơ rủi ro rất tốt cho nhà XK nhưng phương thức này vẫn còn khá nhiều hạn chế. So với hai phương thức thanh toán trên (Phương thức chuyển tiền và Phương thức nhờ thu), phương thức L/C là phương thức yêu cầu thủ tục cũng như quy trình nghiệp vụ phức tạp nhất. Chỉ cần có một sai sót nhỏ trong bộ chứng từ được gửi tới cho NHPH cũng có thể khiến người XK bị từ chối thanh toán. Trong phương thức thanh toán này, người XK có thể gặp rủi ro khi không đáp ứng được các quy định của L/C nên sẽ mất các khoản phí để sửa các lỗi của L/C cho ngân hàng, điều đó dẫn tới thiệt hại về kinh tế cho người XK và làm trì hoãn khả năng nhận tiền mặc dù hàng hóa đã được giao. Một số trường hợp cá biệt, người NK có thể câu kết với NHPH để bắt lỗi nhằm từ chối thanh toán. Đối với người NK, Do phương thức này việc thanh toán hoàn toàn dựa trên bộ chứng từ, nếu người XK có thiện chí không tốt, họ có thể giao hàng không đúng theo trên hợp đồng hoặc không giao hàng mà bằng cách làm giả giấy tờ để lừa ngân hàng cũng như người NK. Khi đó, rủi ro cho người XK là rất cao vì họ đã thanh toán tiền hàng hoặc ký chấp nhận thanh toán trên tờ hối phiếu. Ngoài ra, phương thức này còn gây rủi ro cho ngân hàng tham gia bởi vì đây là phương thức mà trách nhiệm và nghĩa vụ thực hiện của ngân hàng là cao nhất. ngân hàng không chỉ là trung gian thanh toán nhằm thu phí mà còn có nghĩa vụ kiểm tra bộ chứng từ và bị ràng buộc trách nhiệm đối với người XK và NK. Hơn nữa, đây là nghiệp vụ đòi hỏi ngân hàng cần có đội ngũ chuyên viên thành thạo và có kinh nghiệm tốt trong lĩnh vực ngoại thương bởi nó chứa đựng nhiều rủi ro ở khâu nghiệp vụ, vì thế các chuyên viên khi thực hiện phương thức này cần tính cẩn trọng và thực thi nghiêm chỉnh quy trình thanh toán đã đề ra để tránh gây sai sót.
1.2. Hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế
Đối với tất cả các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động trong nền kinh tế, với các cơ chế quản lý khác nhau thì có các nhiệm vụ mục tiêu hoạt động khác nhau. Ngay trong mỗi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp cũng có các mục
14
tiêu khác
doan nhân
nhau. Nhưng có thể nói rằng trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, mọi h nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư
, Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn...) đều có mục tiêu bao trùm lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Mặt khác, hoạt động TTQT lại là một bộ phận của hoạt động kinh tế nói chung. Vậy thì để hiểu được hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế thì trước tiên phải tìm hiểu xem hiệu quả kinh tế nói chung là gì. Từ trước đến nay có rất nhiều tác giả đưa ra các quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế :
Một số quan điểm lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Điển hình cho quan điểm này là tác giả Manfred Kuhn, theo ông : "Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh" đây là quan điểm được nhiều nhà kinh tế và quản trị kinh doanh áp dụng vào tính hiệu quả kinh tế của các qúa trình kinh tế.
Hai tác giả Whohe và Doring lại đưa ra hai khái niệm về hiệu quả kinh tế. Đó là hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật và hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị giá trị. Theo hai ông thì hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau. "Mối quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng tính theo đơn vị hiện vật (chiếc, kg...) và lượng các nhân tố đầu vào (giờ lao động, đơn vị thiết bị,nguyên vật liệu...) được gọi là tính hiệu quả có tính chất kỹ thuật hay hiện vật". Khái niệm hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật của hai ông chính là năng suất lao động, máy móc thiết bị và hiệu suất tiêu hao vật tư, còn hiệu quả tính bằng giá trị là hiệu quả của hoạt động quản trị chi phí.
Từ đó có thể thấy bản chất hiệu quả kinh tế là phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp.
Thông qua đó hiệu quả hoạt động TTQT tại NHTM sẽ được hiểu như sau: Hiệu quả hoạt động TTQT tại NHTM là việc mở rộng số lượng dịch vụ đồng thời nâng cao chất lượng TTQT để đáp ứng như cầu hằng ngày của khách hàng nhằm đạt được kết quả kinh doanh tối đa từ hoạt động này trong ngân hàng. Như vậy, hiệu quả hoạt động TTQT được thể hiện ở 3 khía cạnh cơ bản: Về số lượng dịch vụ; Về chất lượng dịch vụ và Về Kết quả hoạt động kinh doanh.
- Về số lượng dịch vụ TTQT: các NHTM không chỉ duy trì các dịch vụ hiện có mà còn cung cấp thêm các dịch vụ mới dựa trên nhu cầu của khách hàng và khả năng của ngân hàng nhằm đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ TTQT và nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
- Về chất lượng dịch vụ: chất lượng các dịch vụ TTQT phải không ngừng được cải thiện để đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng như sự chính xác trong việc thanh
15
toán với đối tác, nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm thời gian và chi phí, … nhằm mang lại lợi ích tối đa cho khách hàng.
- Về kết quả hoạt động kinh doanh: bao gồm báo cáo kết quả hoạt động TTQT và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Kết quả hoạt động TTQT gồm có: doanh thu, lợi nhuận, số món thanh toán, giá trị thanh toán, số lượng khách hàng,
… . Kết quả kinh doanh càng cao so với chi phí bỏ ra chứng tỏ hiệu quả hoạt động TTQT càng cao.
Do đó, để phân tích được cả 3 khía cạnh của hiệu quả hoạt động TTQT tại NHTM cần thông qua các tiêu chí cùng các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động này một cách chi tiết và cẩn thận.
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Các chỉ tiêu định tính
Tiêu chí quy trình thanh toán chuẩn: Quy trình thanh toán chuẩn là các quy định về nghiệp vụ theo đó thống nhất trình tự và thủ tục thực hiện nhằm giúp ngân hàng dễ dàng kiểm soát và phòng tránh rủi ro. Tiêu chí quy trình thanh toán chuẩn được xác định thông qua tỷ lệ STP (%) theo các mức độ: Quy trình thanh toán chuẩn nhất; Quy trình thanh toán chuẩn; Quy trình thanh toán đạt mức trung bình; Quy trình thanh toán dưới mức trung bình. Trong đó mức độ cao nhất mà các NHTM luôn cố gắng đạt được là mức độ Quy trình thanh toán chuẩn nhất.
Tiêu chí đòn bẩy: Tiêu chí này bao gồm: Tăng cường và hỗ trợ nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, Tăng cường và hỗ trợ nghiệp vụ tài trợ XNK, Tăng cường và hỗ trợ nghiệp vụ tín dụng, Tăng cường nguồn vốn (đặc biệt nguồn vốn ngoại tệ). Phân tích tiêu chí đòn bẩy sẽ cho ta biết ảnh hưởng và mối liên hệ của hoạt động TTQT với các nghiệp vụ liên quan trong NH.
Tăng cường và hỗ trợ nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ: Trong quá trình thực hiện hoạt động TTQT, KH luôn có nhu cầu thanh toán nhưng không có hoặc không đủ ngoại tệ trong TK ngoại tệ của mình do đó NH sẽ bán ngoại tệ của mình cho KH. Như vậy, nhờ vào hoạt động TTQT các NH phát triển được dịch vụ kinh doanh ngoại tệ.
Tăng cường và hỗ trợ nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu: Bên cạnh các khoản thu về phí, NH còn có thể thu lãi trong các nghiệp vụ tài trợ XNK: tài trợ ngoại thương trên cơ sở thanh toán nhờ thu, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, tài trợ trên cơ sở bảo lãnh NH … . Các khoản phí dịch vụ NH thu được có thể là phí chiết khấu chứng từ hàng xuất, phí bảo lãnh, các khoản hoa hồng. Do vậy, khi hoạt động TTQT phát triển kéo theo nghiệp vụ tài trợ XNK của NH cũng phát triển.
16
hoặc
khoả
Tăng cường và hỗ trợ nghiệp vụ tín dụng: Khi NH cho vay thu mua hàng XK cho vay trên cơ sở đảm bảo bằng bộ chứng từ XK theo L/C, NH sẽ thu lãi trên n vốn đã đầu tư tín dụng này. Nếu hoạt động TTQT được thực hiện an toàn thì
đồng vốn tín dụng sẽ được thu hồi cả gốc và lãi và làm tăng hiệu quả hoạt động tín dụng của NH. Đồng thời việc thu hồi nợ đủ cả gốc và lãi đúng hạn còn giúp NH không phát sinh nợ xấu, nâng cao được uy tín NHTM.
Tăng cường nguồn vốn (đặc biệt nguồn vốn ngoại tệ): Khi thực hiện TTQT, mọi nguồn thu từ nước ngoài hoặc chi ngoại tệ để thanh toán đều được thực hiện qua hệ thống NHTM thông qua TK Nostro (Tài khoản tiền gửi ngoại tệ của NHTM tại nước ngoài). Khi hoạt động TTQT càng phát triển thì doanh số giao dịch TTQT càng lớn, NH càng có nguồn vốn ngoại tệ lớn. Như vậy, hoạt động TTQT ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng nguồn vốn tại NH mà cụ thể là tốc độ tăng trưởng nguồn vốn ngoại tệ.
Uy tín của Ngân hàng trong lĩnh vực thanh toán quốc tế: Tạo được uy tín là mục tiêu mà bất kỳ một NHTM nào cũng mong muốn có được. Xây dựng uy tín cũng giống như xây dựng thương hiệu, hình ảnh NHTM trong lòng KH trong và ngoài nước, các đối tác, đây là một quá trình lâu dài. Khi uy tín NHTM đã có được, đặc biệt trong lĩnh vực TTQT là lĩnh vực có nhiều rủi ro cho KH, NHTM sẽ cho thấy tiềm lực tài chính, chất lượng dịch vụ cung cấp, tạo được lòng tin cho các NHTM khác trong nghiệp vụ bảo lãnh L/C … .
1.2.2.2. Các chỉ tiêu định lượng
Nhóm chỉ tiêu tuyệt đối: các chỉ tiêu này được đưa ra nhằm lượng hóa kết quả hoạt động TTQT của NH, thể hiện mức độ cũng như hiệu quả kinh doanh của NH trong hoạt động này. Nhóm chỉ tiêu tuyệt đối bao gồm:
a. Doanh số, doanh thu, chi phí và lợi nhuận từ hoạt động thanh toán quốc tế
Để đánh giá hoạt động TTQT của một ngân hàng trước hết phải nhìn vào doanh số, doanh thu, chi phí và lợi nhuận mà hoạt động này mang lại bởi vì dù sao đi nữa ngân hàng cũng là một tổ chức hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Doanh số trong TTQT là tổng giá trị tất cả các món TTQT được tính trong một đơn vị thời gian nhất định như 1 ngày, 1 tháng hoặc 1 năm; Doanh số TTQT được xác định bởi tích số giữa tổng số món TTQT và giá trị của mỗi món TTQT đó trong một thời gian nhất định và được tính toán quy đổi theo một đơn vị tiền tệ thống nhất. Doanh thu trong hoạt động TTQT lại là những khoản phí phát sinh từ hoạt động TTQT mà ngân hàng thu được tại mỗi thời kỳ nhất định. Khi ngân hàng thực hiện các yêu cầu của khách hàng có liên quan đến TTQT, ngân hàng sẽ thu về được một mức phí nhất định đối với từng nghiệp vụ, các khoản hoa hồng môi giới, chênh lệch đối với nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Khi
17
hoạt động TTQT tại ngân hàng phát triển có nghĩa là ngân hàng sẽ thu được nhiều phí phát sinh, tiền hoa hồng, … và từ đó mang lại doanh thu hoạt động TTQT lớn. Ngoài ra, ngân hàng còn cần phải tính được chi phí phát sinh cho hoạt động này để đưa ra được lợi nhuận thực sự ngân hàng được hưởng. Lợi nhuận sẽ được tính trên hiệu số giữa doanh thu và chi phí hoạt động TTQT, hiệu số này dương chứng tỏ doanh thu ngân hàng có được không chỉ bù đắp được các khoản chi phí mà còn giúp ngân hàng có dư lợi nhuận và ngược lại. Nói cách khác, hiệu quả hoạt động TTQT tỉ lệ thuận với doanh thu và lợi nhuận hoạt động TTQT. Doanh thu và lợi nhuận được tính trên cơ sở:
+ Mức phí hiện hành
+ Số lượng khách hàng
+ Số sản phẩm dịch vụ thanh toán quốc tế cung cấp cho khách hàng
+ Giá trị mỗi món thanh toán quốc tế
+ Số món thanh toán quốc tế
b. Số vụ khiếu nại, số lượng điện sai sót do lỗi từ phía ngân hàng
Hoạt động TTQT rất phức tạp và liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, chính trị, luật pháp, văn hóá. Một sai sót rất nhỏ cũng có thể xảy ra tranh chấp và gây thiệt hại cho các bên liên quan kể cả ngân hàng. Do đó, sự chính xác trong khâu giao dịch tại NHTM là rất cần thiết. Chỉ tiêu này được tính bằng tỷ số số vụ khiếu nại, điện sai sót trên tổng số món thanh toán. Nếu chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận thể hiện được khả năng tài chính và số lượng món mà NHTM đã thực hiện được thì chỉ tiêu này thể hiện tính chính xác của các món TTQT mà NHTM đã thực hiện cùng với khả năng giải quyết khi có rủi ro xảy ra. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt và càng thể hiện hoạt động TTQT tốt, nói cách khác chỉ tiêu Số vụ khiếu nại, số lượng điện sai sót do lỗi từ phía ngân hàng tỉ lệ nghịch với hiệu quả hoạt động TTQT.
Nhóm chỉ tiêu tương đối: các chỉ tiêu này được đưa ra nhằm xem xét tình hình hoạt động TTQT trong tổng thể hoạt dộng dịch vụ nói riêng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung. Nhóm chỉ tiêu tương đối gồm có:
Tỷ trọng doanh số thanh toán từng phương thức trong tổng doanh số TTQT: chỉ tiêu này cho thấy phương thức thanh toán nào được khách hàng sử dụng nhiều nhất tại ngân hàng trong một khoảng thời gian tính toán. Từ đó, ngân hàng sẽ có giải pháp hoàn thiện quy trình thực hiện các phương thức đang được sử dụng chủ yếu và tìm ra nguyên nhân tại sao các phương thức khác ít được sử dụng.
Tỷ lệ lợi nhuận thanh toán quốc tế trên tổng doanh thu thanh toán quốc tế: chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả thu được từ hoạt động TTQT, tức là một đồng doanh thu
18
TTQ
ngân
T thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận TTQT. Nếu tỉ lệ phần trăm dương chứng tỏ hàng có lãi trong hoạt động TTQT và tỉ lệ này qua các năm càng lớn thì càng tốt.
Tỷ lệ Chi phí thanh toán quốc tế trên doanh thu thanh toán quốc tế: Chỉ tiêu này cho thấy một đồng doanh thu TTQT thì ngân hàng phải bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí. Chỉ tiêu này càng nhỏ chứng tỏ ngân hàng đang phải bỏ ra chi phí ít trong khi doanh thu thu về nhiều hơn.
Tỷ lệ lợi nhuận thanh toán quốc tế trong tổng lợi nhuận của toàn ngân hàng: chỉ tiêu này thể hiện mức độ đóng góp lợi nhuận từ hoạt động TTQT trong tổng lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng. Nếu chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ hoạt động TTQT mang lại lợi nhuận cho NH này lớn và đang hoạt động có hiệu quả.
Tỷ lệ doanh thu thanh toán quốc tế trên tổng doanh thu dịch vụ của ngân hàng: chỉ số này cho thấy doanh thu từ hoạt động TTQT đóng góp vào tổng doanh thu dịch vụ của toàn ngân hàng là bao nhiêu. Việc tính toán tỷ lệ này càng cao cho biết doanh thu của hoạt động TTQT đang đóng góp vào doanh thu của toàn dịch vụ của ngân hàng là càng lớn chứng tỏ tầm quan trọng của hoạt động TTQT trong toàn bộ hoạt động của ngân hàng và hoạt động TTQT đang hoạt động hiệu quả. Ngược lại, tỷ lệ này qua các năm càng giảm và đạt tỷ lệ thấp, chứng tỏ, hoạt động TTQT đóng góp ít vào sự phát triển của toàn bộ ngân hàng.
Tỷ lệ lợi nhuận thanh toán quốc tế trên tổng số cán bộ thanh toán quốc tế: Chỉ tiêu này xác định năng suất lao động của một cán bộ TTQT trên hiệu quả mang lại từ hoạt động TTQT, tức là một cán bộ TTQT tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận cho hoạt động TTQT.
Tỷ lệ doanh thu thanh toán quốc tế trên tổng số cán bộ thanh toán quốc tế: Chỉ tiêu này xác định năng suất lao động của một cán bộ TTQT trên doanh thu hoạt động TTQT, tức là một cán bộ TTQT tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu TTQT.
Tiêu chí về tỷ lệ điện chuẩn: Đây là tỉ lệ phần trăm số lần thực hiện chính xác một điện thanh toán chuẩn trên tổng số điện thanh toán mà ngân hàng thực hiện trong một khoản thời gian nhất định thông thường là 1 năm tài chính. Với tỉ lệ điện chuẩn càng cao tức là các giao dịch TTQT đang được thực hiện nhanh chóng từ đó giúp ngân hàng và khách hàng tiết kiệm chi phí thời gian và giảm thiểu rủi ro.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng thương mại
1.2.3.1. Nhân tố khách quan
19
Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế là các yếu tố nằm bên ngoài nhưng chúng lại có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động toàn nền kinh tế. Các yếu tố này cũng là những nguyên nhân chính tạo ra cơ hội cũng như nguy cơ cho các hoạt động của nền kinh tế. Nhìn chung chúng bao gồm từ các yếu tố sau: Tốc độ phát triển, môi trường đầu tư, mức độ hội nhập, liên kết của thị trường tài chính trong nước và thị trường tài chính thế giới,
… . Tình hình kinh tế, tài chính một khi có sự biến dộng sẽ tác động đến hoạt động kinh doanh và đầu tư của các doanh nghiệp ở các quốc gia, từ đó ảnh hưởng đến các luồng tiền tại quốc gia đó. Kết quả là ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại.
Môi trường chính trị
Chính trị là yếu tố đầu tiên mà các nhà đầu tư, nhà quản trị các doanh nghiệp quan tâm phân tích để dự báo mức độ an toàn trong các hoạt động tại các quốc gia, các khu vực nơi mà doanh nghiệp đang có mối quan hệ mua bán hay đầu tư. Các yếu tố như thể chế chính trị, sự ổn định hay biến động về chính trị tại quốc gia hay một khu vực là những tín hiệu ban đầu giúp các nhà quản trị nhận diện đâu là cơ hội hoặc đâu là nguy cơ của doanh nghiệp để đề ra các quyết định đầu tư, sản xuất kinh doanh trên các khu vực thị trường thuộc phạm vi quốc gia hay quốc tế. Yếu tố chính trị là yếu tố rất phức tạp, tuỳ theo điều kiện cụ thể yếu tố này sẽ tác động đến sự phát triển kinh tế trong phạm vi quốc gia hay quốc tế. Ví dụ: Khi một quốc gia có sự ổn định về chính trị sẽ tạo thuận lợi cho nền kinh tế phát triển, trên cơ sở đó các hoạt động thương mại quốc tế sẽ phát triển, nhu cầu TTQT sẽ tăng theo. Tính ổn định chính trị càng cao thì mức an toàn trong đầu tư càng lớn, các nhà đầu tư sẽ bỏ vốn vào nhiều hơn, cơ hội mở rộng thị trường kinh doanh sẽ tăng, hoạt động đầu tư từ nước ngoài vào hoặc đầu tư ra nước ngoài đều tăng lên khiến nhu cầu chuyển giao tiền ra nước ngoài cao hơn và tác động tích cực tới hoạt động TTQT. Ngược lại, mọi rủi ro về chính trị như chiến tranh, cấm vận sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động thương mại quốc tế và khả năng TTQT.
Môi trường pháp luật
Bất cứ hoạt động kinh doanh nào vượt qua biên giới quốc gia đều phải tuân thủ ít nhất hai luật pháp khác nhau, chưa kể tới hoạt động TTQT còn chịu sự chi phối của rất nhiều quy tắc, chuẩn mực quốc tế, thông lệ quốc tế của từng nghiệp vụ phát sinh. Do vậy, việc tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh hay không lành mạnh hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố pháp luật và quản lý nhà nước về kinh tế. Việc ban hành hệ thống luật pháp có chất lượng là điều kiện đầu tiên đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp buộc các doanh nghiệp phải kinh doanh chân chính, có trách nhiệm. Tuy nhiên nếu hệ thống pháp luật không hoàn thiện cũng sẽ có ảnh hưởng
20