Nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý tài chính tại Đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - 13


chính phải đặt vào đâu để có được sản phẩm tốt nhất. Một chương trình cầu truyền hình lớn ngoài việc đòi hỏi một lượng tiền khá lớn để thực hiện, còn phải có ekip nhân lực giỏi, lâu năm trong nghề đảm nhận, chứ không thể giao cho công việc cho những lao động trẻ mới vào nghề, tính rủi ro cao. Mặt khác đội ngũ lãnh đạo cũng là người tiên phong trong việc quyết định hiệu quả đầu tư thông qua năng lực đánh giá hiệu quả chương trình về mặt tuyên truyền cũng như về mặt kinh tế.

Các chương trình có hiệu quả kinh tế thường là những chương trình tạo doanh thu, hiệu quả kinh tế chính là phần dôi ra sau khi lấy doanh thu trừ chi phí. Các chương trình đạt hiệu quả tuyên truyền thông thường theo đánh giá chủ quan của người lãnh đạo, tuy đánh giá hiệu quả tuyên truyền mất nhiều thời gian hơn và ít có tiêu chí đánh giá hơn nhưng với trình độ nghiệp vụ của mình người lãnh đạo phải hết sức nhạy bén trong công tác đánh giá, tổng kết kết quả thực hiện. Kết quả của việc đánh giá này đến lượt nó lại trở thành yếu tố đầu vào của quá trình đầu tư thông qua các quyết định nên duy trì chương trình nào, và đóng cửa chương trình nào. Nguồn lực kinh tế là hữu hạn, đầu tư tràn lan dàn trải, không có trọng tâm, hoặc duy trì việc sản xuất một chương trình chỉ vì tính cả nể, nhằm duy trì công ăn việc làm, thì thật chất đó là sự lãng phí quá lớn.

Biện pháp thực hiện:

Thứ nhất, phụ trách các phòng ban chuyên môn phải tham khảo bảng đánh giá hiệu quả kinh tế các chương trình của Ban Tài chính. Các đánh giá loại này thường áp dụng cho các chương trình xã hội hóa, các trò chơi truyền hình, các chương trình truyền hình thực tế, vì có phát sinh chi phí đầu vào và đầu ra. Chi phí đầu vào là chi phí mua bản quyền chương trình, chi phí đầu ra là giá trị các spot quảng cáo mà đối tác đã cam kết sẽ thực hiện trong chương trình. Nếu tổng giá trị tài trợ vào quảng cáo cao hơn chi phí mua bản quyền, chứng tỏ chương trình có chất lượng, thu hút được sự quan tâm của công chúng và xứng đáng để các doanh nghiệp đăng quảng cáo đi theo chương trình. Đây là các chương trình cần duy trì, nâng cao đổi mới chất lượng để tiếp tục phát huy hiệu quả. Ngược lại các chương trình không


thể hiện được hiệu quả kinh tế thì cần phải chấm dứt hợp đồng, ngưng phát sóng, dành thời lượng cho các chương trình khác.

Thứ hai, đối với các chương trình tuyên truyền, khoa học thường thức, chuyên đề, phải có sự phối hợp giữa các ban chuyên môn, Ban Biên tập và Ban Chương trình để đảm bảo chương trình sản xuất đáp ứng được nhu cầu tuyên truyền và không trùng lắp về đề tài.

Ban biên tập cơ quan đầu não về tư tưởng của HTV phải đưa ra những mũi nhọn tuyên truyền, những gói sản xuất (các tiết mục có tính chuyên sâu về đề tài và sản xuất theo một loạt chương trình liên tục để tạo hiệu quả tuyên truyền đậm nét) ưu tiên sản xuất trong năm, đóng vai trò chỉ đạo và điều tiết sản xuất cho các ban chuyên môn dựa trên lĩnh vực nội dung chuyên trách của từng ban. Đồng thời Ban Biên tập cũng là nơi đánh giá kết quả thực hiện, hiệu quả tuyên truyền của các gói sản xuất trên, để quyết định tiếp tục đề tài cũ hay mở một đề tài mới phù hợp với tình hình và nhu cầu tuyên truyền thực tế.

Ban Chương trình là nơi sắp xếp lịch phát sóng cho toàn HTV. Nhiệm vụ của Ban là tư vấn cho Ban Tổng giám đốc về khung cấu trúc phát sóng các chương trình. Một chương trình được khán giả đón nhận không chỉ phụ thuộc vào yếu tố chương trình đó có chất lượng hay không mà còn phụ thuộc vào giờ phát sóng. Ban Chương trình với vai trò là nhạc trưởng của dàn nhạc HTV phải chỉ ra những chương trình trùng lắp về đề tài, giảm thiểu việc sản xuất trùng lắp ở các ban Biên tập. Tuy mỗi Ban biên tập – ban sản xuất - có một góc nhìn khác nhau về cùng một đề tài, nhưng ranh giới này rất khó phân biệt, nhất là đối với các chương trình giải trí có hợp đồng tài trợ, vì yêu cầu của nhà tài trợ thì chỉ duy nhất làm làm sao thu hút khán giả và doanh nghiệp đến với chương trình nên cách làm chương trình thường bỏ qua những tiêu chí sản xuất truyền thống của Ban Biên tập như tính thời sự, tính khoa giáo, tính chuyên đề xã hội... Giảm được các chương trình trùng lắp, đồng nghĩa với việc giảm được một lượng kinh phí sản xuất và thời lượng trên sóng phải tiêu tốn mà không đem lại hiệu quả về kinh tế lẫn tuyên truyền. Sắp xếp lịch phát sóng hợp lý cho một chương trình có mục tiêu về tuyên truyền hoặc kinh tế

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.


cũng là làm tăng giá trị cho một sản phẩm truyền hình, đem nó lại gần hơn với lượng khán giả tiềm năng. Tránh trường hợp một chương trình được đầu tư lớn, có nội dung hay nhưng không được quan tâm vì giờ phát sóng không phù hợp vì ít người xem, không đạt hiệu quả quảng bá như mong muốn.

Nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý tài chính tại Đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - 13

Về nâng cao năng lực thẩm định đầu tư chương trình

Mục tiêu của hoạt động tài chính là thông qua việc đầu tư kinh phí và cơ cấu chi phí hợp lý mà giá trị hiện kim chuyển thành giá trị thông tin trong chương trình. Việc đánh giá giá trị thông tin cũng như hình thức biểu hiện của nó phù hợp với những định hướng tư tưởng của Đảng, nhà nước và xã hội cũng như phù hợp với tiêu chuẩn phát sóng gọi là công việc thẩm định chương trình. Công việc này xét trên tổng thể thì có nhiều lực lượng cùng tham gia đánh giá. Thứ nhất là lực lượng chuyên môn bao gồm thành viên của Ban Biên tập của HTV sẽ đánh giá chất lượng chương trình, sản phẩm của công việc này là sàng lọc những chương trình đạt chuẩn để đưa lên sóng truyền hình phục vụ công chúng. Lực lượng thứ hai là đông đảo bạn xem Đài ở khắp các vùng miền đất nước, thông qua chỉ số đánh giá rating (tần suất khán giả xem chương trình) mà có thể định vị được chương trình nào được khán giả quan tâm nhiều hay ít. Lực lượng thứ ba là các doanh nghiệp quan tâm đến vị trí việc quảng cáo thương hiệu trên truyền hình, lực lượng này cũng lấy căn cứ là chỉ số rating để đánh giá hiệu quả chương trình.

Đánh giá hiệu quả chương trình liên quan đến các quyết định đầu tư về tài chính cho một chương trình cụ thể. Thời kỳ bao cấp, hoặc thời kỳ trước năm 2011, khi chưa có khủng hoảng kinh tế, đại đa số các chương trình sản xuất theo đơn đặt hàng của nhà nước, sản xuất xong là được phát sóng, vai trò đánh giá, phản biện của các lực lượng xã hội rất ít được quan tâm. Những năm gần đây, khi truyền hình trả tiền đã trở thành phổ biến, khán giả được chọn và đầu tư vào chương trình, vào kênh phát sóng, vào nhà cung cấp dịch vụ thông qua hành vi tiêu dùng của họ. Khi người tiêu dùng đã có tiếng nói riêng và quyền lựa chọn sản phẩm tiêu dùng phù hợp thì đã thấy vai trò của thị trường trong việc xác định và phân bổ nguồn lực đầu tư.


Biện pháp thực hiện:

Khi tham gia vào quá trình vận động của kinh tế thị trường, Lực lượng thẩm định thứ nhất là Ban Biên tập của Đài: bao gồm các Trưởng, phó ban sản xuất, cần phải nâng cao năng lực thẩm định chương trình. Năng lực này không chỉ là sự kiểm duyệt về chất lượng phát sóng, mà cần phải đứng ở vị trí của người xem Đài, các doanh nghiệp đầu tư Quảng cáo đánh giá trở lại khả năng tham gia thị trường của sản phẩm thông tin được tạo ra, khả năng thu hút được khán giả và khả năng tạo ra doanh thu của chương trình dưới nhiều hình thức khác nhau. Vai trò vừa là người quản lý phải vừa là người thẩm định chương trình, vừa là người ký duyệt đầu tư kinh phí sản xuất, vừa là người quyết định sản phẩm đầu ra. Lực lượng thẩm định cũng là người có trách nhiệm tổ chức cho đội ngũ sản xuất tạo ra những sản phẩm uy tín chất lượng, lấy nhu cầu của khán giả làm trung tâm định hướng sản xuất. Làm được điều này, các nhà thẩm định đã giúp nâng cao hiệu quả quản lý, đầu tư kinh phí sản xuất đầu vào đồng thời quyết định hiệu quả kinh tế của sản phẩm đầu ra, nâng cao năng lực cạnh tranh về nội dung, góp phần đưa sản phẩm truyền hình đến gần với công chúng thông qua thị trường.

3.3.2.3 Các giải pháp về nghiệp vụ tài chính kế toán.

Các giải pháp về nghiệp vụ tài chính có tác động nâng cao hiệu quả quản lý tài chính ở chỗ, dựa vào kết quả của các báo cáo tổng hợp có thể tham mưu cho Ban Tổng giám đốc các quyết định tài chính trong ngắn hạn và dài hạn.

Thứ nhất, về công tác lập kế hoạch

Như phần trên đã nêu công tác lập kế hoạch bất cập ở chỗ ngoài Dự toán hoạt động được lập trong năm đầu của thời kỳ ổn định 3 năm, các kế hoạch hoạt động, tài chính của Đài chủ yếu được lập vào đầu năm, đầu niên độ kế toán. Ngoài các kế hoạch ngắn hạn gắn kết với nhiệm vụ chính trị trong năm, kế hoạch dài hạn cũng cần thiết cho việc quản lý tài chính. Nếu có kế hoạch dài hạn, Đài sẽ chủ động hơn trong công tác chuẩn bị và phân phối các nguồn lực. Các thủ trưởng đơn vị cấp 2 cũng cần dự đoán được nhu cầu trong tương lai gắn với các chủ trương phát triển


chung mà lên kế hoạch của đơn vị trong vòng 2 đến 3 năm, nhất là trong lĩnh vực quản lý tài sản.

Biện pháp thực hiện:

Nâng tầm kỹ năng lập kế hoạch. Công tác kế hoạch không chỉ tiến hành vào thời điểm cuối năm mà phải là kết quả của một quá trình giám sát và tổng kết thường xuyên kết quả việc thực hiện kế hoạch đầu năm, vừa là kết quả của quá trình nắm bắt theo dõi nhu cầu thực tiễn sẽ phát sinh trong vòng 1 đến nhiều năm tiếp theo. Không chỉ lập các kế hoạch hoạt động cho 1 năm cho nhu cầu tài chính, mà phải lập kế hoạch dài hạn cho các lĩnh vực có nhu cầu như lãnh vực mua sắm tài sản, lĩnh vực phát triển các dự án. Như vậy công tác kế hoạch vừa đảm bảo độ chính xác tương đối, vừa có tầm nhìn sẽ giúp công tác quản lý tài chính hiệu quả, vì kế hoạch là thước đo mức độ hoàn thành nhiệm vụ, vừa là cơ sở để chủ động chuẩn bị khả năng tài chính cho các hoạt động trong tương lai.

Thứ hai, gắn thu nhập tăng thêm với năng suất chất lượng và hiệu quả sản xuất.

Thu nhập tăng thêm là một phần của chênh lệch thu chi, được phân phối đến người lao động hằng tháng. Đây là khoản thu nhập gắn liền với doanh thu, là sản phẩm của việc phân phối lợi nhuận sau thuế đến với người lao động. Khoản thu nhập này có ý nghĩa rất lớn trong việc cải thiện đời sống của viên chức Đài truyền hình. Cơ sở tính thu nhập tăng thêm dựa trên hệ số lương nội bộ của HTV và doanh thu trong kỳ. Lao động có thâm niên càng cao thì thu nhập tăng thêm được phân phối lại càng nhiều. Việc trả thu nhập tăng thêm không đi kèm với bất kỳ một đánh nào về năng suất chất lượng chương trình tạo nên một tâm lý “hưởng lương đương nhiên” triệt tiêu động lực phấn đấu hoàn thiện kỹ năng lao động và chất lượng sản phẩm của người lao động.

Biệp pháp thực hiện:

Theo đúng ý nghĩa của thu nhập và nguồn gốc phân phối thu nhập, khoản thu nhập này nên gắn với năng suất, chất lượng lao động, dựa trên một thang tiêu chí đánh giá công việc. Thang đánh giá công việc được xây dựng chuẩn cho từng thể loại công việc như Biên tập, quay phim, kế toán, phụ trách..., đồng thời quy định số


lượng công việc tối thiểu phải hoàn thành hay là định mức lao động. Một viên chức hoàn thành nhiệm vụ vượt định mức sẽ được hưởng phần thu nhập tăng thêm.

Cải cách này sẽ biến thu nhập tăng thêm trở thành động lực lao động với ý nghĩa là phần thưởng vật chất sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ. Điều này cũng giúp cho Đài tiết kiệm chi phí về thu nhập tăng thêm cho những đối tượng làm việc không hiệu quả, không đủ định mức nhưng vẫn nhận tiền lương và thu nhập tăng thêm như hiện nay.

Thứ ba, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ làm kế toán - kiểmtoán nội bộ.

Xu hướng phát triển của ngành nói chung và của đơn vị nói riêng là ngày càng hội nhập vào kinh tế thị trường, hướng đến xây dựng một nền kinh tế truyền thông lớn mạnh hoạt động theo quy luật khách quan. Trong môi trường đó các quan hệ kinh tế đan xen phức tạp, đòi hỏi cả đội ngũ quản lý tài chính, cả đội ngũ làm chuyên môn nghiệp vụ kế toán và đội ngũ kiểm toán nội bộ phải từng bước nâng cao tay nghề, học hỏi kinh nghiệm, đưa hệ thống, quy trình nghiệp vụ của mình đến gần với hệ thống quản lý tài chính doanh nghiệp, thích ứng với đòi hỏi ngày càng nhiều và ngày càng phức tạp của các nghiệp vụ phát sinh trong điều kiện mới của kinh tế thị trường ngành truyền thông.

Bên cạnh nâng cao nghiệp vụ kế toán, đội ngũ kiểm toán nội bộ cũng phải phát huy vai trò kiểm soát, phản biện nghiệp vụ, giúp cho môi trường tài chính lành mạnh, không phát sinh tiêu cực, hỗ trợ đắc lực cho đội ngũ làm công tác quản lý. Thực tế cho thấy chi phí hoạt động thường xuyên luôn tăng qua mỗi năm, trong đó ngoài những khoản tăng cơ học do tăng lương, phụ cấp theo quyết định của nhà nước, thì khoản tăng từ chi phí sản xuất chương trình chiếm tỷ lệ đáng kể. Mục tiêu cần đạt tới, hoặc với chi phí tăng thêm, toàn bộ được phải được đầu tư vào nâng cao chất lượng chương trình như mua thêm chất xám, tăng cường đạo cụ làm phong phú cho hình ảnh thể hiện..., hoặc phải tăng cường công tác chủ nhiệm, kiểm soát chi hiệu quả để giảm tỷ lệ tăng do chi tiêu chưa hợp lý.

Biện pháp thực hiện:


Để nâng cao năng lực nghiệp vụ có thể thực hiện bằng nhiều cách. Trước tiên, bản thân người lao động phải tự học tập, tìm hiểu tài liệu, chủ động nâng cao trình độ và cập nhật kiến thức chuyên môn. Tình hình thực tế chuyển biến yêu cầu các nội dung trong các văn bản luật phải điều chỉnh cho phù hợp, nên cập nhật thường xuyên là việc phải làm. Bên cạnh đó HTV cần mở những lớp học nghiệp vụ phổ biến đến cho toàn thể đội ngũ kế toán kiểm toán để chuẩn hóa lại kiến thức chuyên môn lẫn kiến thức ngành truyền hình đặc thù cho đội ngũ này, vì có hiểu công việc sản xuất chuyên môn, nắm vững được các yêu cầu thực tế thì việc vận dụng công tác tài chính phục vụ cho sản xuất mới đem lại hiệu quả, đảm bảo có sự phối hợp đồng bộ giữa lĩnh vực sản xuất và quản lý tài chính. Cuối cùng, HTV không chỉ chủ động hiện đại hóa quy trình quản lý thích ứng với các nghiệp vụ kinh tế phức tạp phát sinh trong điều kiện mới, mà còn phải rút kinh nghiệm qua các đợt kiểm toán nhà nước làm việc hàng năm để không ngừng hoàn thiện kỹ năng nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu quản lý tại chỗ và từ các cơ quan quản lý tài chính cấp trên.

3.3.2.4 Giải pháp nguồn nhân lực

Để tận dụng triệt để nguồn nhân lực sẵn có, đội ngũ lãnh đạo HTV cần bố trí phân công công việc hợp lý để không xảy ra tình trạng quá dồn việc hoặc quá dãn việc vào một nơi; đồng thời hạn chế số lượng cộng tác viên thường xuyên phát sinh bên ngoài số lượng nhân viên chính thức. Khi toàn bộ nhân viên HTV đã tải được khối lượng công việc tại HTV với năng suất, chất lượng cao thì lượng lao động Cộng tác viên sẽ giảm xuống, trừ những cộng tác viên làm công việc mang tính chất đặc thù.

Thích ứng với đòi hỏi của kinh tế thị trường, đội ngũ lao động của HTV cần có phương hướng tự đào tạo, hoặc được đào tạo thường xuyên để nâng cao trình độ tay nghề, kỹ năng tác nghiệp phù hợp với môi trường cạnh tranh. Nói cách khác, đội ngũ lao động cần không ngừng hoàn thiện bản lĩnh chính trị, kỹ năng chuyên môn để tham gia vào guồng máy tạo ra giá trị mới của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.


Kết chương III:

HTV phát triển trong xu hướng chung của ngành truyền hình với một số đặc điểm như sau:

- Tài nguyên tần số ưu tiên dành cho phát hình mặt đất, sau khi phân bổ cho các kênh truyền hình công ích một tỷ lệ tài nguyên nhất định, phần còn lại sẽ được thị trường hóa.

- Khoảng cách giữa viễn thông và truyền hình đang ngày càng rút ngắn và có xu hướng tiến tới thống nhất trên các mặt nội dung, mạng truyền dẫn, thiết bị dầu cuối và quản lý. Hình thành các tập đoàn quản lý mạng truyền dẫn, chuyên sản xuất nội dung chương trình, phân phối sản phẩm thông qua công ty chi nhánh và công nghệ truyền hình phát triển tương thích với thiết bị điện tử thông minh có khả năng tích hợp nhiều ứng dụng trong đó có phát hình.

- Cơ cấu doanh thu của ngành truyền hình trong cơ chế cạnh tranh của kinh tế thị trường và sự phát triển vượt bậc của công nghệ truyền dẫn đã thay đổi theo hướng giảm dần doanh thu quảng cáo. Thay vào đó các nguồn thu về bán bản quyền chương trình truyền hình hay bán quyền phát sóng đang dần dần tăng dần tỷ trọng. Xu hướng này vừa đa dạng hóa nguồn thu, vừa tránh cho các Đài truyền hình quá lệ thuộc vào doanh thu quảng cáo truyền thống.

Các đặc điểm trên được quy hoạch theo định hướng của chính phủ về quản lý tần số và quản lý nội dung như sau:

Quy hoạch phát triển truyền hình Việt Nam đến năm 2020, dịch vụ truyền hình sẽ ưu tiên phục vụ nhiệm vụ chính trị, đồng thời kết hợp cung cấp truyền hình dịch vụ trả tiền có nội dung phong phú, đáp ứng nhu cầu thông tin, giải trí lành mạnh của người dân.

Quy hoạch, từ năm 2015, cung cấp ổn định 70 – 80 kênh truyền hình phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếu. Khoảng 40 – 50 kênh truyền hình chuyên biệt của Việt Nam dành cho truyền hình trả tiền và dịch vụ truyền hình trả tiền theo yêu cầu.

Xem tất cả 115 trang.

Ngày đăng: 08/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí