Hệ Thống Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Hiệu Quả Kinh Doanh


tiếng Việt năm 1991). Theo quan điểm này thì "Hiệu quả sản xuất diễn ra khi sản xuất không thể tăng sản lượng một loại hàng hóa mà không cắt giảm sản xuất của một loại hàng hóa khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó". Nhìn nhận quan điểm này dưới góc độ doanh nghiệp thì tình hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả khi nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó. Giới hạn khả năng sản xuất của doanh nghiệp được xác định bằng giá trị tổng sản lượng tiềm năng, là giá trị tổng sản lượng cao nhất có thể đạt được ứng với tình hình công nghệ và nhân công nhất định. Theo quan điểm này thì hiệu quả thể hiện ở sự so sánh mức thực tế và mức "tối đa" về sản lượng. Tỷ lệ so sánh càng gần 1 càng có hiệu quả. Mặt khác, ta thấy quan điểm này tuy có đề cập đến các yếu tố đầu vào nhưng lại đề cập không đầy đủ.

Tóm lại, quan điểm này là chính xác, độc đáo nhưng nó mang tính chất lý thuyết thuần tuý, lý tưởng, thực tế rất khó.

Quan điểm 3

Quan điểm này cho rằng: "Hiệu quả kinh tế được xác định bởi quan hệ tỷ lệ giữa sự tăng lên của đại lượng kết quả và chi phí"

Cụng thức biểu diễn phạm trù này: H= ΔK/ΔC

ΔK: Phần gia tăng của kết quả sản xuất ΔC: Phần gia tăng của chi phí sản xuất H: Hiệu quả sản xuất kinh doanh

Quan điểm này phản ánh hiệu quả chưa đầy đủ và trọn vẹn. Nó chỉ đề cập đến hiệu quả của phần tăng thêm bằng cách so sánh giữa phần gia tăng của kinh doanh sản xuất và phần gia tăng của chi phí sản xuất chứ chưa đề cập toàn bộ phần tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Xét trên quan điểm triết học Mác Lênin thì mọi sự vật, hiện tượng đều có mỗi quan hệ mật thiết, hữu cơ với nhau chứ không tồn tại một cách riêng lẻ, độc lập. Sản xuất kinh doanh không nằm ngoài quy luật này, các yếu tố "tăng thêm" giảm đi có liên hệ với các yếu tố sẵn có. Không trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới kết quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là kết quả tổng hợp của toàn bộ phần tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Quan điểm này chỉ đề cập đến phần tăng thêm trong khái niệm hiệu quả là chưa đầy đủ, thiếu chính xác.

Quan điểm 4


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 71 trang tài liệu này.

Quan điểm thứ 4 cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh phải thể hiện được mối quan hệ giữa sự vận động của chi phí tạo ra kết quả đó, đồng thời phản ánh được trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất”.

Quan điểm này chú ý đến sự so sánh tốc độ vận động của hai yếu tố phản ánh hiệu quả kinh doanh, đó là tốc độ vận động của kết quả và tốc độ vận động của chi phí. Mối quan hệ này phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất của doanh nghiệp.

Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty TNHH Thương mại và Xây lắp Meiko - 3

Quan điểm 5

Theo quan điểm này: "Hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó"

Khái niệm chung về hiệu quả kinh tế: "Hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (hoặc một quá trình kinh tế) phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (nhân tài, vật lực, tiền vốn) để đạt được mục tiêu xác định"

Từ khái niệm trên ta có công thức để biểu diễn khái quát phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh.

H = K/C

H: Hiệu quả sản xuất kinh doanh.

K: Kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh.

C: Chi phí của quá trình sản xuất kinh doanh (chi phí bỏ ra để đạt được kết quả K).

Như vậy, ta nhận thấy rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh (doanh thu, lợi nhuận) thì phản ánh số lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Vậy, khi xem xét, đánh giá hoạt động của một doanh nghiệp thì phải quan tâm đến cả kết quả cũng như hiệu quả của doanh nghiệp đó.

Quan điểm này đã đánh giá được tốt nhất trình độ lợi dụng các nguồn lực ở mọi điều kiện "động" của hoạt động sản xuất kinh doanh.

Việc tính toán hiệu quả hoàn toàn có thể thực hiện được trong sự vận động và biến đổi không ngừng của hoạt động sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến động khác nhau của chúng.

Kết luận: Trong phạm vi đề tài này, tác giả đi theo quan điểm số 5.

Như vậy, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất, trình độ tổ chức và quản lí của doanh nghiệp


để thực hiện cao nhất các mục tiêu kinh tế xã hội với chi phí thấp nhất. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp gắn chặt với hiệu quả kinh tế của toàn xã hội, vì thế nó cần được xem xét toàn diện cả về mặt định tính lẫn định lượng, không gian và thời gian.

Nếu xét về tổng lượng, người ta chỉ thu được hiệu quả kinh doanh khi nào kết quả lớn hơn chi phí, chênh lệch này càng lớn thì hiệu quả càng cao và ngược lại. Song khi đánh giá về mặt định tính, mức độ hiệu quả kinh tế cao phản ánh sự cố gắng, nỗ lực, trình độ quản lý của mỗi khâu, mỗi cấp trong hệ thống công nghiệp và sự gắn bó của việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu kinh tế với những yêu cầu và mục tiêu chính trị - xã hội. Hai mặt định lượng và định tính của phạm trù hiệu quả có quan hệ chặt chẽ với nhau, có nghĩa là trong những biểu hiện về định lượng phải nhằm đạt được những mục tiêu chính trị - xã hội nhất định. Nếu đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp theo quan điểm này, tức là chỉ khi nào đạt được kết quả cao nhất trong điều kiện chi phí thấp nhất mới được gọi là hiệu quả. Song trên thực tế, việc xác định kết quả nào là cao nhất và chi phí nào là thấp nhất là rất khó.

Về mặt hình thức, hiệu quả kinh doanh luôn là một phạm trù so sánh thể hiện mối tương quan giữa cái phải bỏ ra và cái thu về được. Bản chất phạm trù hiệu quả cho thấy không có sự đồng nhất giữa hiệu quả và kết quả.

Kết quả chỉ là yếu tố cần thiết để tính toán và phân tích hiệu quả. Kết quả chưa thể hiện được nó tạo ra ở mức nào và với chi phí bao nhiêu. Hiện nay, nhiều người vẫn còn nhầm lẫn giữa khái niệm hiệu quả, kết quả và hiệu suất, nhiều khi chỉ thấy kết quả của mình làm ra là cao hay thấp mà chưa thấy được việc sử dụng các yếu tố đầu vào để tạo đầu ra đã tốt hay chưa. Do vậy, để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh doanh cần phải phân biệt ranh giới giữa hiệu quả với kết quả và hiệu suất. Vấn đề này được trình bày cụ thể như sau:

- Kết quả chỉ là sự phản ánh kết cục cuối cùng của đối tượng nghiên cứu. Hiểu đơn giản, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chính là những gì doanh nghiệp đạt được sau một quá trình kinh doanh nhất định. Với mỗi doanh nghiệp, sau một thời gian làm việc hoặc sau một chu kỳ kinh doanh thì kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh có thể là những đại lượng cân, đong, đo, đếm được; và cũng có thể là một khối lượng công việc hoàn thành, số lượng sản phẩm tiêu thụ của mỗi loại, thị phần


hoặc doanh thu bán hàng, lợi nhuận, ... Trong các chỉ tiêu kết quả này chỉ có lợi nhuận là kết quả cuối cùng còn các chỉ tiêu sản lượng, doanh thu... chỉ là kết quả trung gian.

Như vậy, kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của cơ sở sản xuất kinh doanh. Trong khi đó, hiệu quả là việc sử dụng cả hai chỉ tiêu phản ánh kết quả (đầu ra) và chi phí (các nguồn lực đầu vào) để đánh giá hiệu quả. Trong lý thuyết và thực tế, quản trị kinh doanh cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí đều có thể được xác định bằng đơn vị hiện vật hoặc giá trị. Tuy nhiên, việc sử dụng đơn vị hiện vật để xác định hiệu quả kinh doanh sẽ vấp phải khó khăn giữa “đầu vào” và “đầu ra” không có cùng đơn vị đo lường, còn việc sử dụng cách thức đo lường bằng giá trị sẽ giúp quá trình tính toán, phân tích được thuận lợi hơn. Vấn đề được đặt ra là trong thực tế, nhiều lúc chỉ tiêu hiệu quả được sử dụng như mục tiêu cần đạt được, nhưng trong nhiều trường hợp khác người ta lại sử dụng chúng như một công cụ để nhận biết “khả năng” tiến tới mục tiêu cần đạt được là kết quả.

- Hiệu suất là việc đánh giá cường độ hoạt động của đối tượng nghiên cứu. Theo Từ điển Kinh tế Anh - Việt, hiệu suất là tương quan giữa đầu ra hay giá trị sản xuất ra trong một thời gian nhất định và số lượng yếu tố đầu vào được sử dụng để sản xuất được đầu ra ấy.

Như vậy, hiệu quả hoạt động cũng chính là quá trình khai thác hiệu suất sử dụng của các nguồn lực mà doanh nghiệp có được. Tuy nhiên, các chỉ tiêu này chỉ dừng lại ở việc cho biết thông tin về sự biến động quy mô tăng giảm chứ chưa giúp các nhà phân tích nhìn thấy mức độ ảnh hưởng và sự tác động ở khía cạnh kinh tế. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hiệu quả và hiệu suất là hai chỉ tiêu có quan hệ nhân quả, hiệu quả có thể là kết quả của hiệu suất nhưng nhiều khi hiệu quả không là kết quả của hiệu suất. Chẳng hạn, hiệu suất sử dụng tài sản dài hạn là so sánh doanh thu (giá trị sản lượng) với nguyên giá bình quân tài sản sử dụng - chỉ tiêu này có thể cao nhưng hiệu quả không cao, vì tài sản dài hạn đó có thể sản xuất ra nhiều sản phẩm nhưng lại tiêu hao nhiều năng lượng, nguyên vật liệu,... làm cho giá thành sản phẩm cao, việc bán sản phẩm sẽ bị lỗ. Tuy nhiên, bằng việc so sánh hiệu suất giữa các kỳ với nhau lại chúng ta cũng có thể đánh giá được hiệu quả của hoạt động kinh doanh.

Về mặt thời gian, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đạt được trong từng thời kì, từng giai đoạn không được làm giảm hiệu quả kinh doanh của từng giai đoạn, các thời kì, chu kì kinh doanh tiếp theo. Điều đó đòi hỏi bản thân các doanh nghiệp không


được vì lợi ích trước mắt mà bỏ đi lợi ích lâu dài. Trong thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp, điều này thường không được tính đến là con nguời khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn không có kế hoạch, thậm chí khai thác sử dụng bừa bãi, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và phá huỷ môi trường. Cũng không thể quan niệm rằng cắt bỏ chi phí và tăng doanh thu lúc nào cũng có hiệu quả.

Tóm lại, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản xuất nói riêng, trình độ tổ chức và quản lí nói chung để đáp ứng các nhu cầu xã hội và đạt được các mục tiêu mà doanh nghiệp đó xác định. Hiệu quả kinh doanh biểu thị mối tương quan giữa kết quả đầu ra mà doanh nghiệp đạt được với nguồn lực đầu vào mà các mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được kết quả đó và mối quan hệ giữa sự vận động của kết quả với sự vận động của các nguồn lực tạo ra kết quả đó trong những điều kiện nhất định.

1.2.2. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh

1.2.2.1. Hiệu quả kinh doanh tổng hợp

Hiệu quả kinh doanh tổng hợp được xem là kết quả thu được từ tổng chi phí và lợi nhuận thu vào để thực hiện một nhiệm vụ kinh doanh sản xuất. Việc tính toán hiệu quả kinh doanh tổng hợp sẽ cho thấy hiệu quả chung của doanh nghiệp. Còn việc tính toán và phân tích hiệu quả sẽ cho thấy sự tác động của yếu tố nội bộ đến việc sản xuất kinh doanh, trên nguyên tắc hiệu quả kinh doanh tổng hợp phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh thành phần. Nâng cao hiệu quả kinh doanh tổng hợp của doanh nghiệp cũng có nghĩa là nâng cao các chỉ tiêu sau:

Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu

Khái niệm

Suất sinh lời của doanh thu là một tỷ số tài chính dùng để theo dõi tình hình sinh lợi của công ty. Nó phản ánh quan hệ giữa lợi nhuận ròng và doanh thu của công ty.

Cách tính

Tỷ số lợi nhuận trên doanh thu trong một kỳ nhất định được tính bằng cách lấy lợi nhuận ròng hoặc lợi nhuận sau thuế trong kỳ chia cho doanh thu trong kỳ. Đơn vị tính là %.

Cả lợi nhuận ròng lẫn doanh thu đều có thể lấy từ báo cáo kết quả kinh doanh của công ty.


Công thức tính tỷ số này như sau

Tsli nhun trên doanh thu

Lợi nhuận ròng (hoặc lợi nhuận sau thuế)


Ý nghĩa

= 100% x

Doanh thu

Tỷ số này cho biết lợi nhuận chiếm bao nhiêu phần trăm trong doanh thu. Tỷ số này mang giá trị dương nghĩa là công ty kinh doanh có lãi; tỷ số càng lớn nghĩa là lãi càng lớn. Tỷ số mang giá trị âm nghĩa là công ty kinh doanh thua lỗ.

Tuy nhiên, tỷ số này phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của từng ngành. Vì thế, khi theo dõi tình hình sinh lợi của công ty, người ta so sánh tỷ số này của công ty với tỷ số bình quân của toàn ngành mà công ty đó tham gia. Mặt khác, tỷ số này và số vòng quay tài sản có xu hướng ngược nhau. Do đó, khi đánh giá tỷ số này, người phân tích tài chính thường tìm hiểu nó trong sự kết hợp với số vòng quay tài sản.

Tỷ suất lợi nhuận trên tổng chi phí

Khái niệm chi phí

Chi phí là sự hao phí thể hiện bằng tiền trong quá trình kinh doanh với mong muốn mang về một sản phẩm, dịch vụ hoàn thành hoặc một kết quả kinh doanh nhất định. Chi phí phát sinh trong các hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ nhằm đến việc đạt được mục tiêu cuối cùng của doanh nhiệp; doanh thu và lợi nhuận.

Công thức:

Tỷ số lợi nhuận theo chi phí


Ý nghĩa


= 100% x

Lợi nhuận trong kỳ

Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ

Chỉ tiêu này phản ánh độ lợi dụng các yếu tố chi phí trong sản xuất nó cho thấy với 1 đồng chi phí tạo ra bao nhiêu lợi nhuận. Chỉ tiêu này có hiệu quả nếu tốc độ tăng lợi nhuận tăng nhanh hơn tốc độ tăng chi phí.

Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản

Khái niệm

Suất sinh lợi của tài sản là một tỷ số tài chính dùng để đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của doanh nghiệp.

Cách tính


Tỷ số này được tính ra bằng cách lấy lợi nhuận ròng (hoặc lợi nhuận sau thuế) của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo (có thể là 1 tháng, 1 quý, nửa năm, hay một năm) chia cho bình quân tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp trong cùng kỳ. Số liệu về lợi nhuận ròng hoặc lợi nhuận trước thuế được lấy từ báo cáo kết quả kinh doanh. Còn giá trị tài sản được lấy từ bảng cân đối kế toán. Chính vì lấy từ bảng cân đối kế toán, nên cần tính giá trị bình quân tài sản doanh nghiệp.

Công thức

Tsli nhun ròng trên tài sn

Lợi nhuận ròng (hoặc lợi nhuận sau thuế)

= 100% x


Bình quân tổng giá trị tài sản

Vì lợi nhuận ròng chia cho doanh thu bằng tỷ suất lợi nhuận biên, còn doanh thu chia cho giá trị bình quân tổng tài sản bằng hệ số quay vòng của tổng tài sản, nên còn cách tính tỷ số lợi nhuận trên tài sản nữa, đó là:

Tỷ số lợi nhuận trên tài sản = Tỷ suất lợi nhuận biên × Số vòng quay tổng tài sản

Ý nghĩa

Nếu tỷ số này lớn hơn 0, thì có nghĩa doanh nghiệp làm ăn có lãi. Tỷ số càng cao cho thấy doanh nghiệp làm ăn càng hiệu quả. Còn nếu tỷ số nhỏ hơn 0, thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Mức lãi hay lỗ được đo bằng phần trăm của giá trị bình quân tổng tài sản của doanh nghiệp. Tỷ số cho biết hiệu quả quản lý và sử dụng tài sản để tạo ra thu nhập của doanh nghiệp. Tỷ số lợi nhuận ròng trên tài sản phụ thuộc vào mùa vụ kinh doanh và ngành nghề kinh doanh. Do đó, người phân tích tài chính doanh nghiệp chỉ sử dụng tỷ số này trong so sánh doanh nghiệp với bình quân toàn ngành hoặc với doanh nghiệp khác cùng ngành và so sánh cùng một thời kỳ.

Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu

Khái niệm

Là tỷ số tài chính để đo khả năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn của một công ty.

Cách tính

Lợi nhuận trong tỷ số này là lợi nhuận ròng, lấy từ báo cáo kết quả kinh doanh của công ty, tính trong một thời kỳ nhất định (1 tháng, 1 quý, nửa năm, hay 1 năm) gọi là kỳ báo cáo. Còn vốn trong tỷ số này là bình quân vốn chủ sở hữu

Công thức của tỷ số này như sau



Tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu = 100% x

Lợi nhuận ròng

Bình quân vốn chủ sở hữu

Vì lợi nhuận ròng chia cho doanh thu thuần thì bằng tỷ suất lợi nhuận biên, vì doanh thu thuần chia cho giá trị bình quân tổng tài sản thì bằng số vòng quay tổng tài sản, và vì bình quân tổng tài sản chia cho bình quân vốn chủ sở hữu thì bằng hệ số đòn bNy tài chính, nên còn có công thức tính thứ 2 như sau:

Tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu = Tỷ suất lợi nhuận biên x Số vòng quay tổng tài sản x Hệ số đòn bẩy tài chính

Mặt khác, vì tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) bằng tỷ suất lợi nhuận biên nhân với số vòng quay tổng tài sản, nên:

ROE = ROA x Hệ số đòn bẩy tài chính

Ý nghĩa

Tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ROE cho biết cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu của công ty cổ phần này tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nếu tỷ số này mang giá trị dương, là công ty làm ăn có lãi; nếu mang giá trị âm là công ty làm ăn thua lỗ.

Cũng như tỷ số lợi nhuận trên tài sản, tỷ số này phụ thuộc vào thời vụ kinh doanh. Ngoài ra, nó còn phụ thuộc vào quy mô và mức độ rủi ro của công ty. Để so sánh chính xác, cần so sánh tỷ số này của một công ty với tỷ số bình quân của toàn ngành, hoặc với tỷ số của công ty tương đương trong cùng ngành.

1.2.2.2. Hiệu quả kinh doanh bộ phận

Nâng cao hiệu quả kinh doanh bộ phận của doanh nghiệp cũng có nghĩa là nâng cao các chỉ tiêu sau:

Hiệu quả sử dụng tài sản

Tài sản cố định

Tài sản cố định là cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp. Số lượng và giá trị tài sản cố định phản ánh năng lực thực hiện có, trình độ tiến bộ về khoa học kỹ thuật của xí nghiệp đầu tư trang thiết bị là điều kiện quan trọng để tăng sản lượng, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Mặt khác sử dụng hết công suất của tài sản cố định hiện có cũng là một trong biện pháp quan trọng để thực hiện tốt kế hoạch sản xuất và các kế hoạch khác. Vì vậy doanh nghiệp cần phải thường xuyên kiểm tra đánh giá tình hình trang thiết bị tài sản cố định, máy móc thiết bị.

Xem tất cả 71 trang.

Ngày đăng: 06/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí