Kinh Nghiệm Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực Của Doanh Nghiệp Hàn Quốc


thuộc vào sự hoàn thành của công việc kia nên một khâu công việc chậm trễ làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện của cả nhóm. Do đó, sự phối hợp còn tạo ra cơ hội học tập lẫn nhau, kiểm soát được tiến độ, chất lượng và tạo động lực thúc đẩy cạnh tranh nhóm và bình đẳng trong nhóm.

Toyota và Isuzu chú trọng các kỹ năng nghiên cứu và phát triển, phối hợp giữa kỹ năng nghiên cứu và phát triển với hoạt động marketing, liên tục khuyến khích, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhằm thúc đẩy khả năng sáng tạo và luôn có phần thưởng xứng đáng cho sáng kiến sáng tạo của nhân viên. Đặc biệt là sáng kiến có khả năng nâng cao chất lượng SP. Công ty thành lập nhiều nhóm kiểm tra chất lượng gồm các nhân viên trong mỗi bộ phận SX am hiểu và nắm vững tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng. Nhóm này sẵn sàng trợ giúp những vướng mắc trong quá trình SX cho từng bộ phận hay cá nhân. Hoạt động này thêm phần gắn kết, thân thiết giữa các bộ phận trong công ty và tạo ra một sự đồng lòng, thống nhất trong toàn công ty.

Như vậy, chế độ ưu đãi, trọng dụng NNL trong quản lý và sử dụng, trong đào tạo và phát triển NNL của công ty, là chế độ đãi ngộ xứng đáng. Từ cơ chế đãi ngộ đó, NNL luôn trung thành và tận tâm với công ty. NNL là bí quyết để Toyota và Isuzu có mặt rộng khắp trên thế giới ngày nay.

1.5.2. Kinh nghiệm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp Hàn Quốc

Hàn Quốc [50][115] là một quốc gia rất nghèo về tài nguyên thiên nhiên nhưng

vươn lên thành một trong 15 nước phát triển nhất trên thế giới. Có được thành tựu ngày nay chính là dựa vào NNL. Chính phủ Hàn Quốc khẳng định mục tiêu: bồi dưỡng tính sáng tạo, tinh thần kỷ luật tự giác, tính cạnh tranh, phát triển khả năng và nhân cách bảo vệ, phát huy sức mạnh, ý chí dân tộc, năng lực, trí tuệ của người Hàn Quốc lên những trình độ cao nhất, đưa Hàn Quốc trở thành một quốc gia có vai trò chủ chốt trong các vấn đề của thế giới. Do đó, đào tạo để phát triển NNL là mối quan tâm không chỉ được Chính phủ mà các hãng KD, dân chúng đều tạo điều kiện tốt nhất cho đào tạo.

Các hãng KD, đặc biệt là các tập đoàn xuyên quốc gia, đầu tư cho nghiên cứu, phát triển và khoa học công nghệ rất mạnh. SungKwang Bend là một công ty SX


công nghiệp ống phụ kiện toàn cầu, SungKwang Electronic là công ty SX công nghiệp đồ điện tử gia dụng. Hai công ty này luôn có những chính sách phát triển NNL toàn diện, các chính sách đó chính là căn cứ để bố trí, sử dụng NNL. Quan trọng hàng đầu là chính sách đào tạo để phát triển NNL. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và phát triển đặc biệt là khoa học cơ bản và công nghệ, đồng thời hợp tác giữa công ty, các trường đại học và các cơ sở nghiên cứu để nâng cao trình độ NNL, nâng cao tính chuyên nghiệp trong SX và phục vụ khách hàng. LĐ quản lý được tạo điều kiện để học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ sử dụng và quản lý NNL. Đặc biệt, công ty xây dựng hệ thống đánh giá và quản lý kiến thức, kỹ năng công việc, trình độ cho từng khâu sản xuất. Hệ thống thông tin quản lý là hệ thống cực kỳ quan trọng để công ty xây dựng kết cấu hạ tầng thông tin cho phát triển NNL và điều hành mọi hoạt động trong công ty. Tuy đặc điểm VH của người Hàn quốc có tính bảo thủ cố hữu, nhưng khi đã có những sự giao thoa VH giữa các nước, công ty đặt trọng tâm cho hiệu quả công việc để mở rộng và phát triển hệ thống trên toàn cầu. Do vậy, các chế độ đãi ngộ luôn chú trọng tương xứng với công sức của NNL trong hai công ty.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 222 trang tài liệu này.

1.5.3. Kinh nghiệm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp Nam Phi

Ngành gỗ là một trong những ngành tương đối phát triển tại Nam Phi, Silverton Timber Merchants (PTY) Limited [149] là công ty được coi là hàng đầu trong sản xuất và chế biến gỗ của Nam Phi. Silverton Timber Merchants được thành lập năm 1982 với 500m2 nhà kho và phân xưởng sản xuất, hiện nay công ty đã có 3000m2 cho hoạt động sản xuất, chế biến và kinh doanh. Ngoài các mặt hàng gỗ gia dụng được sản xuất phục vụ cho xuất khẩu bao gồm cả đồ gỗ trong nhà và ngoài trời, còn có các sản phẩm gỗ cung cấp cho các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp khác như các pallet chứa hàng, gỗ ván sàn, gỗ đóng tàu…Về nhân sự, công ty luôn có chính sách nhân sự rõ ràng, nhất là cho những nhân viên kỹ thuật, những thợ mộc có tay nghề giỏi và những công nhân làm việc trực tiếp tại các phân xưởng của công ty.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam - 11

Ngay từ khi trở thành nhân viên của công ty, toàn bộ NNL của công ty đều được giải thích cặn kẽ về chính sách nhân sự, về các điều khoản của hợp đồng lao


động, về các chế tài xử lý nếu có vi phạm xảy ra để NNL hiểu rõ và cam kết làm theo quy định của công ty.

NNL được trang bị đồng phục đầy đủ và các phương tiện bảo hộ LĐ cá nhân được cấp phát cho NNL sản xuất trực tiếp ngay từ khi bước chân vào công ty. Các điều kiện về nhiệt độ, ánh sáng, sự thông thoáng của nơi làm việc…được chú trọng từ khi xây dựng phân xưởng. NNL được tập huấn rất kỹ về an toàn LĐ, về thời gian làm việc và mọi quy định về an toàn trong sản xuất được tuân thủ triệt để.

NNL sản xuất trực tiếp được phân chia theo nhóm trong sản xuất và không thay đổi vị trí làm việc tại mỗi phân xưởng để nâng cao tính chuyên môn hóa trong dây chuyền sản xuất. Thành viên trong nhóm có thể đổi vị trí cho nhau để thay thế nếu có người nghỉ, không thực hiện chế độ nghỉ giữa ca. Trưởng nhóm sản xuất báo cáo nhanh cuối ca cho xưởng trưởng để tổng kết sơ bộ về chất lượng sản phẩm và tiến độ sản xuất kinh doanh.

Hàng năm, công ty lựa chọn một số nhân viên kỹ thuật và thay phiên nhau đi học tập ở nước ngoài (trong đó có Việt Nam) để tìm hiểu về công nghệ sản xuất, các sản phẩm hiện hành được ưa chuộng, xu hướng tiêu dùng của khách hàng, các mẫu mã thiết kế mới… Công ty đề cao tính sáng tạo cho nhân viên và có phần thưởng lớn và tôn vinh tập thể cho người đưa ra sáng kiến, nhất là người thiết kế mẫu sản phẩm và đưa được sản phẩm đó sản xuất thành sản phẩm được tiêu thụ.

Trong chiến lược quản lý và phát triển công ty: hình thành lực lượng nòng cốt về nguồn nhân lực để tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài về trí tuệ. Thu mua cả cánh rừng nguyên liệu để tận dụng khai thác, hạn chế phụ thuộc nhập khẩu nguyên liệu. Liên tục cải thiện các máy móc thiết bị trong sản xuất để tận dụng năng lực sản xuất và giảm chi phí đầu tư. Tuy nhiên, nếu trang thiết bị hỏng phải sửa đến lần thứ ba liên tục sẽ bỏ và mua mới thay thế.

Công ty mở tài khoản cho các thành viên kể cả công nhân sản xuất và người phục vụ để thực hiện trả thu nhập vào tài khoản, thuận tiện trong quản lý và giảm bớt giao dịch trực tiếp giữa nguồn nhân lực gián tiếp và trực tiếp. Trường hợp người lao động chấm dứt hợp đồng lao động công ty sẽ tiến hành khóa tài khoản cá nhân đó,


hoặc cá nhân đó có thể giữ tài khoản đó với điều kiện thay đổi địa chỉ sở hữu lập tài khoản gốc và các trách nhiệm pháp lý có liên quan.

1.5.4. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về đào tạo phát triển nguồn nhân lực để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Nhật Bản[56][89][135] là nước châu Á không có nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nhận

thức được điều đó cũng như vai trò của NNL trong phát triển đất nước, nước Nhật đã tiên phong trong phát triển NNL, Chính phủ Nhật Bản coi GD&ĐT là quốc sách. Tất cả học sinh cấp tiểu học và trung học cơ sở không phải đóng học phí. Có chính sách ưu đãi và khuyến khích xứng đáng cho đội ngũ giáo viên. Chế độ coi trọng con người tại các DN không có quốc gia nào sánh bằng và đã được công nhận trên thế giới.

Hàn Quốc[49][81][114] – quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên, tham vọng phát triển

đất nước và tham dự giải quyết tất cả những vấn đề quan trọng của thế giới. Chính phủ Hàn Quốc coi trọng GD&ĐT, bắt đầu từ trẻ em: Trẻ em là một bộ phận không thể tách rời khỏi nguồn tài năng trí tuệ, được coi là vốn quí nhất của quốc gia. Vì vậy, giáo dục năng khiếu là con đường tất yếu, duy nhất để một dân tộc, quốc gia sánh với thế giới. Học sinh năng khiếu Hàn Quốc (khoảng 3% dân số), được ưu tiên điều kiện giáo dục đặc biệt và thỏa mãn mọi nhu cầu thiết yếu. Chú trọng đặc biệt công tác đào tạo đội ngũ LĐ chất lượng cao. Xây dựng hệ thống mạng lưới đào tạo chất lượng cao quy củ từ tuyển chọn, đào tạo, cơ sở vật chất và giáo viên. Đầu tư phát triển khoa học công nghệ, phát triển các tập đoàn công nghệ cao và xuyên quốc gia.

Mỹ [113] - đầu tầu kinh tế của thế giới luôn có chiến lược phát triển NNL dài hạn.

Coi trọng đội ngũ giáo viên với những chế độ đãi ngộ xứng đáng, xây dựng cơ sở vật chất hiện đại và khuyến khích người học bằng phần thưởng vật chất và phi vật chất. Kinh phí cho giáo dục đại học được yêu cầu đóng góp từ tất cả các tổ chức: Chính phủ, DN, Nhà thờ, tổ chức phi chính phủ… nên chế độ thù lao thỏa đáng. Coi trọng sáng tạo và khuyến khích phát triển tư duy, thu hút người tài và nâng cao giá trị cuộc sống. Do đó, tỷ lệ nhập cư và người tài giỏi tập trung tại Mỹ nhiều hơn hẳn các quốc gia khác.

Singapore[82][99] - một quốc gia có rất ít các trường công lập nhưng đều là các

trường trọng điểm quốc gia. Chính sách đào tạo nhân tài và ứng dụng khoa học tiến bộ


trong giảng dạy, tạo môi trường học tập hiện đại để khơi gợi và phát huy tiềm năng của người học. Để thu hút nhân tài và mở rộng quy mô đào tạo vươn lên tầm quốc tế, Singapore thực hiện liên kết với nhiều các trường ĐH trên thế giới, các học sinh nước ngoài đến học tại Singapore không cần Visa, gia đình không cần chứng minh khả năng tài chính và chi phí học tập cũng không cao so với nhiều quốc gia khác.

Trung Quốc[82][117]-quốc gia có số dân chiếm 1/3 dân số thế giới, đào tạo và sử

dụng có hiệu quả NNL là mục tiêu xây dựng XH toàn diện về mọi mặt trong chiến lược phát triển của Trung Quốc. Vốn đầu tư cho phát triển NNL chiếm 15% tổng SP quốc nội. Gửi NNL đi học tập và nghiên cứu mọi lĩnh vực trong đời sống KTXH ở nhiều nước trên thế giới để có cái nhìn tổng thể và toàn diện trong định hướng phát triển đất nước. Chú trọng sử dụng nhân tài để xây dựng Trung Quốc cường thịnh; Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ trí thức, người tài và đề cao sáng tạo tri thức của NNL một cách tôn trọng và khoa học.

1.5.5. Bài học kinh nghiệm về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam

- Hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho phát triển ngành thông qua chuyển giao vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và đặc biệt là đào tạo NNL.

- Đào tạo để nâng cao chuyên môn, tay nghề cho NNL luôn được quan tâm và tạo điều kiện cho NNL học tập, phát triển kỹ năng nghề cũng như phát triển NNL cho các DN.

- Các cuộc tiếp xúc và đàm phán thương mại mở rộng tạo cơ hội cho NNL học tập, hiểu biết về môi trường KD quốc tế nhằm nâng cao năng lực và khả năng ứng xử, giải quyết tình huống có thể xảy ra. Đặc biệt là sự hiểu biết pháp luật để có thể vận dụng trong các tranh chấp thương mại quốc tế.

- Áp dụng nhiều phương thức bán hàng, sử dụng nhiều loại kênh phân phối khác nhau kể cả tham gia với các tập đoàn xuyên quốc gia, thương mại điện tử là cơ hội cho NNL học tập và mở rộng kiến thức.

- Với số DN trong ngành có vốn đầu tư nước ngoài, cơ hội học tập nhiều nhưng đôi khi NNL chưa cố gắng trau dồi kiến thức. Mức độ lành nghề chưa là yếu tố cạnh tranh với quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt là khả năng thiết kế


mẫu mã còn yếu, tài chính ít nên khả năng đầu tư vào công nghệ mới. Tỷ lệ NNL làm việc thủ công chiếm phần lớn và 80% NNL chưa qua đào tạo, NNL gián tiếp và LĐ kỹ thuật không hoàn toàn đúng chuyên môn. Các DN chủ yếu dạy lý thuyết, khâu thực hành trên thực tế rất hạn chế trước khi NNL làm việc chính thức.

Kết luận chương 1

Dựa trên một số kinh nghiệm trong quản lý, sử dụng và đào tạo để áp dụng vào phát triển NNL và nâng cao CLNNL cho các DN. Tham khảo và học tập các PP đào tạo nhằm nâng cao chất lượng GD&ĐT tại VN nhằm nâng cao CLNNL VN. Khi thực hiện chiến lược phát triển NNL nhất thiết phải triển khai cùng với chiến lược phát triển KTXH. NNL phải khỏe cả về thể chất và tinh thần. Không chỉ hoàn thiện về trình độ chuyên môn, đầy đủ kiến thức khoa học kỹ thuật công nghệ, tác phong chuyên nghiệp, NNL cần có ý thức tự lực, trách nhiệm cộng đồng, tôn trọng văn hóa truyền thống quốc gia. Sự hội nhập ngày càng sâu và rộng trên tất cả các mặt của cuộc sống, NNL VN phải thể hiện được trí tuệ của bản thân và sức mạnh dân tộc để tạo ra một cách nhìn nhận mới, một diện mạo mới cho người VN.

Thông qua các bài học kinh nghiệm nâng cao CLNNL, tác giả thấy nguồn gốc để NNL có chất lượng cao là GD&ĐT. Nguồn gốc nâng cao CLNNL phải bắt đầu từ đánh giá NNL để có căn cứ, cơ sở cho hệ thống thù lao LĐ, thù lao LĐ là nguồn gốc tạo động lực trong LĐ. Đánh giá sự thực hiện công việc của NNL có chuẩn mực hay không lại phụ thuộc vào tuyển dụng, bố trí công việc và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá trong quản trị NNL trong DN.

CLNNL bị tác động và ảnh hưởng từ nhiều yếu tố: có các yếu tố bên trong DN và cả yếu tố chủ quan của chính bản thân mỗi con người; có các yếu tố bên ngoài. NCS tập hợp thành sơ đồ hệ thống các yếu tố ảnh hưởng tới CLNNL trong sơ đồ 1.1. Từ việc tham khảo, nghiên cứu và khảo sát về NNL và CLNNL, tác giả đã xây dựng được mô hình hệ thống các tiêu chí đánh giá CLNNL trong các DNCNCBG hiện đại VN (sơ đồ 1.2). Tác giả hy vọng mô hình này có thể được ứng dụng làm

phương tiện đánh giá về NNL trong các DNCNCBG hiện đại VN.


Chương 2

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN GỖ VIỆT NAM

2.1. Khái quát ngành nghiệp công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam

2.1.1. Lịch sử phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam

Sự phát triển của ngành CNCBG cũng đã trải qua các giai đoạn khác nhau của lịch sử đất nước. Thời kỳ Pháp thuộc, rừng VN chủ yếu khai thác phục vụ cho người Pháp nên khâu CBG hầu như không có. Cơ sở ban đầu của ngành CNCBG sau này là các nhà máy cưa xẻ, diêm, giấy và các làng nghề mộc còn đến ngày nay như Đồng Kỵ, Từ Sơn (Bắc Ninh), La Xuyên (Nam Định)…

Trong kháng chiến chống Pháp, ngành CNCBG chủ yếu phục vụ nhu cầu quốc phòng, giao thông vận tải, công nghiệp. Ngày 4/12/1954 Nhà nước bãi bỏ sở Mậu dịch, Tổng công ty Lâm thổ sản được thành lập và SX lâm nghiệp tác động lớn đến rừng. Đây là thời kỳ khôi phục KT đất nước nên mọi nguồn lực được tập trung phát triển kinh tế cải thiện nâng cao đời sống nhân dân và chi viện cho chiến trường Miền Nam. Gỗ tròn và gỗ xẻ trở thành một mặt hàng thuộc quản lý của Nhà nước và

không được mua bán tự do trên thị trường[88].

Chỉ thị số 13/TTg ngày 3/1/1959 của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu sáp nhập bộ phận khai thác, phân phối các loại lâm sản của Tổng công ty Lâm thổ sản do Bộ nội thương quản lý vào Bộ Nông Lâm và giao cho Cục Lâm nghiệp quản lý. Các đơn vị SXKD gỗ và các SP gỗ chế biến được hình thành. Thời điểm này, chỉ có các xưởng gia công CBG chủ yếu của tư nhân tại Hà Nội và Hải Phòng. Đến năm 1959 các nhà máy CBG được đưa vào hoạt động như nhà máy Diêm Thống Nhất, nhà máy gỗ dán Cầu Đuống và nhà máy gỗ Vinh (Nghệ An). Đến tháng 4/1960, do sự chia tách Bộ Nông Lâm nên Tổng cục Lâm nghiệp được thành lập có chức năng quản lý và chỉ đạo các cơ sở CBG lâm sản. Nhận thức được sự quan trọng của ngành gỗ và CBG, Hội nghị Trung ương thứ 8 khóa III nhấn mạnh việc đưa ngành CNCBG thành ngành quan trọng nhất, nhiều nông trường, lâm trường được thành lập, sản lượng gỗ khai thác tăng nhanh, nhiều cơ sở CBG được hình thành trên diện rộng.


Trong kháng chiến chống Mỹ, số lượng các cơ sở SX đồng thời chú trọng trồng rừng nguyên liệu, SX chủ yếu phục vụ cho quốc phòng. Việc thay đổi đối tượng quản lý từ Bộ Nội thương; Bộ Nông Lâm; Cục lâm nghiệp…dẫn đến việc không thống nhất quan điểm và hình thức quản lý, thậm chí nhiều địa phương đã không bàn giao cơ sở CBG cho ngành Lâm nghiệp quản lý. Sau giải phóng đất nước, Bộ Lâm nghiệp được thành lập (1976) và Vụ công nghiệp rừng là cơ quan tham mưu của Bộ Lâm nghiệp về các hoạt động liên quan đến khai thác và CBG, cung ứng gỗ theo chỉ tiêu kế hoạch phục vụ cho phát triển KTXH.

Việc chuyển đổi từ cơ chế kinh tế tập trung sang cơ chế KT thị trường là bước ngoặt quan trọng với nhân dân cả nước và sự phát triển KTXH. Gỗ trở thành một loại hàng hóa thông thường được trao đổi và mua bán trên thị trường tự do. Các liên hiệp chế biến và cung ứng lâm sản được hợp nhất thành các Tổng công ty SX và XNK lâm sản. Đến năm 1990, cả nước có 62 xí nghiệp CBG Trung ương và địa phương đáp ứng nhu cầu gỗ trong nước và XNK. Ngành CBG phát triển rộng khắp các địa phương nhưng các thành phần KT trong ngành không thực hiện theo kế hoạch về quy hoạch ngành, dẫn đến rừng bị khai thác và tàn phá nặng nề, làm kiệt quệ nguồn tài nguyên và phá hủy môi trường sống. Vì vậy, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã ban hành các Quyết định và chỉ thị quan trọng để bảo vệ rừng và phát triển ngành CNCBG.

Từ năm 1995 đến nay, sản lượng khai thác gỗ tự nhiên đã hạn chế rất nhiều, khuyến khích nhập khẩu gỗ cho SX đáp ứng nhu cầu thị trường, đồng thời kêu gọi đầu tư trồng rừng nguyên liệu và bảo vệ môi trường sinh thái. Đến giai đoạn này, ngành CNCBG đã trải qua rất nhiều giai đoạn thăng trầm khác nhau cùng lịch sử đất nước. Ngành đã có những chuyển biến tích cực về lượng và chất: quy mô ngành mở rộng và phát triển; Đầu tư máy móc kỹ thuật và công nghệ cho SX phát triển; Tái cấu trúc tổ chức và đầu tư tài chính; Hình thành các cụm SX và CBG lớn trong cả nước; Quy hoạch các vùng trồng rừng nguyên liệu phục vụ SX và mong muốn đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế; Xây dựng các điều kiện vệ tinh cho SX và tiêu thụ cho ngành CNCBG và phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tính đến năm 2011 VN có khoảng 2.600 DNCBG, 96% tổng số DNCBG là DN ngoài

Xem tất cả 222 trang.

Ngày đăng: 14/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí