Chính sách chuyển giao công nghệ: Việt Nam không có chính sách chuyển giao công nghệ như các nước Trung Quốc, Hàn Quốc…vì vậy sau 10 năm nước ta đã có nhiều hãng ô tô nổi tiếng trên thế giới đầu tư nhưng các chuyên gia này kêu rằng có lẽ Việt Nam sẽ không thể có ngành công nghiệp ô tô phải đạt tỷ lệ nội địa hoá 40%. Giá thành của ô tô sản xuất trong nước cao hơn khu vực khá lớn do tỷ lệ nội địa hoá thấp (đến nay tỷ lệ nội địa hoá của các doanh nghiệp ô tô mới chỉ từ 2 – 10%). Do đó, cần phải có chính sách chuyển giao công nghệ đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, nếu không chúng ta sẽ chỉ là một thị trường tiêu thụ khổng lồ với dân số trên 84 triệu người cho các nước.
Vấn đề giải toả đền bù đất đai: nên có một cơ chế đảm bảo tiến hành nhanh chóng việc đền bù và giải toả đất. Một trong những khó khăn cản trở tiến độ các dự án đầu tư là công tác đền bù giải phóng mặt bằng còn nhiều bất cập dẫn đến tâm lý e ngại của các nhà đầu tư. Do đó, khi cho thuê đất nhà nước cần có những giải quyết về công tác giải phóng mặt bằng nhanh chóng và thoả đáng trước khi tiến hành giao đất cho các nhà ĐTNN.
Trên đây là một số tồn tại trong môi trường pháp lý đầu tư nước ngoài của Việt Nam và kiến nghị để khắc phục những tồn tại đó. Trong bối cảnh hội nhập khu vực nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung, dòng FDI trước hết sẽ chảy vào quốc gia nào có hành lang pháp lý thuận lợi đối với các nhà đầu tư. Mặc dù đã ban hành những luật mới trong năm 2005, nhưng thực tế lại nảy sinh những bất cập. Do đó, các cơ quan chính phủ Việt Nam cần phải phối hợp chặt chẽ hơn để khắc phục tình trạng các qui định mới đưa ra lại chồng chéo nhau, gây bất lợi cho các nhà ĐTNN.
2. Nâng cao năng lực kỹ thuật và chất lượng nguồn nhân lực.
2.1. Cải thiện chất lượng và cơ cấu lao động.
Một điều hiển nhiên là nguồn nhân lực có vai trò rất quan trọng đối với môi trường đầu tư các nước. Với lực lượng lao động khoảng 46 triệu người, Việt Nam có thể cung cấp một lực lượng lao động lớn mà không gặp bất kỳ một trở ngại nào. Tuy nhiên, Việt Nam lại thiếu lực lượng kỹ sư có trình độ trung cấp đến cao cấp. Cơ cấu lao động của Việt Nam, nếu so sánh với cơ cấu lao động của các nước phát triển và các nước đang phát triển có thể thấy cơ cấu đào tạo và cơ cấu lao động kỹ thuật
của nước ta rất bất hợp lý. Tỷ lệ này gần với cơ cấu lao động của các nước phát triển, trong khi Việt Nam lại là nước đang phát triển. Do đó, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, Chính phủ cần phải đổi mới mạnh mẽ hệ thống giáo dục và đào tạo nghề, trung học chuyên nghiệp, đại học nhằm đào tạo được đội ngũ lao động đáp ứng được các yêu cầu của thị trường lao động. Trước hết, Chính phủ cần xác định lại cơ cấu lao động ở mọi cấp độ, phải gắn cơ cấu lao động với đặc thù Việt Nam là nước đang phát triển và đang trong giai đoạn phát triển hướng tới nền kinh tế công nghiệp. Do đó trong thời gian tới cần đẩy mạnh phát triển hệ thống giáo dục đào tạo nghề và trung học chuyên nghiệp nhằm nâng cao tỷ lệ cũng như số lượng cán bộ kỹ thuật và lao động kỹ thuật trong lực lượng lao động.
Hiện nay, việc đào tạo thực hành khoa học và kỹ thuật trong các trường đại học còn rất yếu, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động này cũng thiếu, tâm lý thiếu nhiệt tình trong quá trình tiếp thu những kiến thức thực tế của sinh viên các trường là một tồn tại phổ biến. Vì thế, cần phải cải cách triệt để đào tạo đại học theo cả hai hướng đó là phần cứng (bằng trang thiết bị) và phần mền (chương trình đào tạo và phương thức giảng dạy). Nên xây dựng một cách hiệu quả các chương trình liên thông giữa các trường đại học và các tổ chức học thuật, ví dụ như chương trình thực tập ngắn hạn để sinh viên có điều kiện nâng cao năng lực thực hành và có thái độ đúng đắn với tác phong công nghiệp trong môi trường làm việc của doanh nghiệp.
2.2. Tăng cường đào tạo quản lý ở bậc trung cấp.
Hiện nay Việt Nam thiếu một thế hệ có thể quản lý ở bậc trung cấp. Các doanh nghiệp nước ngoài thường khó tìm được những người quản lý bậc trung cấp mà có đủ khả năng làm việc. Vì thế nên phát triển các chương trình đào tạo thông qua học việc (OJT – On the job training) dài hạn. Một số nhà sản xuất hàng điện tử Nhật Bản thậm chí còn sẵn sàng đứng ra hỗ trợ cho khoá đào tạo thường niên về quản lý cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Chính phủ nên đứng ra tổ chức các khoá học nhằm tăng cường trình độ quản lý ở bậc trung cấp. Ví dụ, các doanh nghiệp Việt Nam nên chủ động tham gia các khoá học đào tạo chính thức của hiệp hội học bổng kỹ thuật hải ngoại (AOTS).
Có thể bạn quan tâm!
- Ma Trận So Sánh Chi Phí Đầu Tư Năm 2006.
- Tính Minh Bạch Và Mức Độ Trong Sạch Của Môi Trường Đầu Tư.
- Triển Vọng Phát Triển Hợp Tác Kinh Tế Khu Vực Đông Á
- Hình Thành Chính Sách Thúc Đẩy Phát Triển Các Ngành Công Nghiệp Phụ Trợ.
- Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trên bản đồ các nước Đông Á, thực trạng và giải pháp - 15
- Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trên bản đồ các nước Đông Á, thực trạng và giải pháp - 16
Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.
2.3. Chú trọng đào tạo ngoại ngữ cho người lao động.
Theo thống kê của tổ chức JETRO, lao động Việt Nam chỉ có trình độ ngoại ngữ vào loại trung bình trong khu vực. Đây là một trong những điểm yếu của lao động Việt Nam, ảnh hưởng xấu đến sức hấp dẫn của môi trường đầu tư và cản trở quá trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam. Do đó, cần thiết phải xây dựng một chương trình đào tạo ngoại ngữ cụ thể nhằm trang bị kiến thức và hành trang cho lực lượng lao động Việt Nam trong điều kiện hội nhập vào quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Vấn đề này chưa được đề cập cụ thể trong chiến lược phát triển giáo dục đào tạo giai đoạn 2001 – 2010 của Đảng. Đào tạo ngại ngữ hiện nay thiếu và yếu cả về chính sách nhà nước, đội ngũ giáo viên, phương thức giản dạy và cơ sở trang thiết bị học tập. Vì vậy trong thời gian tới cần phải coi đào tạo ngoại ngữ , mà quan trọng nhất là tiếng Anh như là một trong những môn học bắt buộc từ cấp tiểu học trên phạm vi toàn quốc. Cũng cần cải tiến phương pháp giảng dạy từ nặng về lý thuyết sang coi trọng các kỹ năng giao tiếp thực hành. Ngoại ngữ không chỉ là một công cụ giao tiếp mà nó còn là phương tiện để người lao động Việt Nam nhanh chóng nắm bắt các thành tựu và tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhằm đảm bảo cho Việt Nam không bị tụt hậ xa hơn nữa so với các nền kinh tế khác trên thế giới.
2.4. Thành lập Quỹ hỗ trợ các hoạt động đào tạo nguồn nhân lực ngay tại doanh nghiệp.
Hiện nay, hầu hết các nước trong khu vực đều đã có Quỹ khuyến khích phát triển nguồn nhân lực do Chính phủ thành lập tại các doanh nghiệp, đồng thời các chính phủ cũng có những chính sách ưu đãi dành cho các doanh nghiệp có những nỗ lực trong phát triển đào tạo nguồn nhân lực của mình. Chính phủ Việt Nam cũng nên thành lập loại hình quỹ hỗ trợ này nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ tại chỗ. Các hình thức hỗ trợ có thể là cho vay vốn hoạt động với mức lãi suất ưu đãi hoặc hình thức miễn giảm thuế thu nhập.
2.5. Xây dựng chính sách khuyến khích Việt Kiều trở về nước.
Đây là nguồn lao động chất lượng cao, hùng hậu và hiệu quả do đã được tiếp cận với các kiến thức khoa học kỹ thuật mới của thế giới, được đào tạo trong môi trường tiên tiến và có tác phong làm việc hiện đại phù hợp với yêu cầu chung của thế giới. Nếu có thể huy động đội ngũ tri thức này trở về góp sức cho công cuộc
phát triển kinh tế đất nước thì đây sẽ là yếu tố giúp Việt Nam nhanh chóng thay đổi được tác phong làm việc cũ và tiếp cận được với những thành tựu mới của thế giới.
3. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng.
Tuy đã có nhiều cố gắng cải thiện nhưng môi trường đầu tư của Việt Nam chưa thực sự tạo nên một động lực mạnh mẽ đối với các nhà ĐTNN, đặc biệt là những tồn tại trong cơ sở hạ tầng đã tạo nên một trở ngại to lớn đối với hoạt động thu hút FDI. Để cải thiện cơ sở hạ tầng nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc thu hút FDI vào Việt Nam, cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Cải thiện đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông, sử dụng có hiệu quả nguồn thu phí giao thông cho cải tạo hệ thống đường bộ.
- Đa dạng hoá các loại hình đầu tư vào mạng lưới bưu chính viễn thông, tạo tác động cạnh tranh để giảm giá cước.
- Cải tạo mạng lưới truyền tải điện quốc gia, đầu tư phát triển hơn nữa vào hệ thống thuỷ điện.
- Hoàn thiện cơ sở hạ tầng thông tin.
Để thực hiện được những giải pháp đó, việc tìm kiếm nguồn vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng là một vấn đề nan giải, vì đầu tư cơ sở hạ tầng đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn chậm, tính sinh lời thấp nên không mấy hấp dẫn các nhà đầu tư. Vì thế, cần xác định rõ nguồn vốn ngân sách vẫn giữ vai trò chính. Nhà nước nên dành một tỷ lệ chi ngân sách lớn hơn cho đầu tư cơ sở hạ tầng trên cơ sở tăng tỷ lệ huy động ngân sách và tiết kiệm các khoản chi thường xuyên không cần thiết. Ngoài ra cần có các chính sách cụ thể để huy động mọi nguồn vốn trong dân, từ phía các doanh nghiệp trong và ngoài nước, từ các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế. Cụ thể:
Một là, với nguồn vốn ODA: Tranh thủ tối đa nguồn vốn này dựa trên những cam kết của Chính phủ các nước dành cho Việt Nam bằng cách chứng minh tính khả thi và hiệu quả thực tiễn của các dự án được giải ngân.
Hai là, phát hành trái phiếu Chính phủ trong nước để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và đảm bảo nguồn vốn hoàn trả.
Ba là, cho phép các nhà ĐTNN thành lập doanh nghiệp chuyên tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng, hoặc sử dụng quỹ đất để kêu gọi đầu tư theo hình thức đổi đất lấy công trình.
Bốn là, xã hội hoá lĩnh vực đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thông qua hình thành những đơn vị chuyên ngành đầu tư và khai thác cơ sở hạ tầng có đủ năng lực tài chính và chuyên môn, cũng như khả năng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư.
Năm là, áp dụng chính sách đãi ngộ đặc biệt như hỗ trợ lãi suất tín dụng cho dự án xây dưng cơ sở hạ tầng, miễn giảm thuế đến mức thấp nhất trong thời gian công trình đã đi vào hoạt động nhưng chưa hoàn vốn. Theo kinh nghiệm của các quốc gia khác trên thế giới, Chính phủ nên để cho chủ đầu tư được kinh doanh thêm những dịch vụ đi kèm với dự án đầu tư và cơ sở hạ tầng. Ví dụ: khi xây dựng đường giao thông thì nhà đầu tư được kinh doanh thêm trạm xăng dầu hoặc mở các trung tâm phục vụ khách bộ hành trên con đường đó.
Qua thực tiễn, mô hình “xã hội hoá lĩnh vực đầu tư phát triển cơ sử hạ tầng đã đem lại những kết quả đáng khích lệ. Năm 2001, Sở kế hoạch đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh đã cấp phép thành lập công ty cổ phần đầu tư hạ tầng kỹ thuật TP HCM (gọi tắt là CII) với chức năng chính là “đầu tư xây dựng, khai thác, kinh doanh hạ tầng kỹ thuật đô thị” theo phương thức BOT và BT và “dịch vụ thu phí giao thông”. Tính đến thời điểm 30/6/2003. đơn vị đã hoạt động dựa trên hợp đồng chuyển nhượng quyền quản lý, thu phí giao thông đường Điện Biên Phủ (xa lộ Hà Nội) và đường Hùng Vương nối dài với lợi nhuận sau thuế năm 2002 đạt trên 39 tỷ VNĐ (lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh chiếm 99,97%). Đây là một ví dụ hoạt động thành công của phương thức kinh doanh này, từ hiệu quả đó nhà nước nen đẩy mạnh việc thực hiện mô hình này, vừa tiết kiệm chi Ngân sách, vừa nhanh chóng cải thiện mạng lưới hạ tầng giao thông.
Tuy nhiên, huy động vốn mới chỉ là một mặt của vấn đề, vấn đề còn lại quan trọng hơn là sử dụng có hiệu quả những khoản vốn đầu tư hạn chế đó. Do đó nguyên tắc trong việc phân bổ và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là “đặt hiệu quả đầu tư lên hàng đầu”. Muốn vậy, cần phải thực hiện đồng bộ những biện pháp sau:
Thứ nhất, việc tập trung nguồn lực đang hạn chế vào một số công trình trọng điểm đã mang lại hiệu quả lớn hơn nhiều so với đầu tư tràn lan. Do đó trước mắt chúng ta phải tạm thời chấp nhận sự phát triển thiếu cân xứng giữa các địa phương. Ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng cho những vùng kinh tế trọng điểm trước, sau đó tạo hiệu ứng lan toả để phát triển các vùng còn lại. Đây chính là bài học quý báu rút ra từ kinh nghiệm xây dựng các đặc khu kinh tế và khu vực kinh tế mở của Trung Quốc.
Thứ hai, trong cơ cấu vốn đầu tư, nguồn vốn từ ngân sách giữ vai trò chính, nhưng nguồn vốn này lại khá hạn hẹp. Do đó chỉ nên tập trung nguồn vốn ngấn sách cho những công trình mang tính đầu mối, tiếp đó là những công trình mang tính thiết yếu mà các thành phần kinh tế khác không có khả năng đầu tư hoặc đầu tư không hiệu quả. Điều này sẽ giúp sử dụng một cách hiệu quả nhất nguồn vốn ngân sách hạn chế và hướng các nguồn vốn khác theo địng hướng đã chọn.
Thứ ba, đối với các lĩnh vực cơ sở hạ tầng mà tư nhân cũng như nước ngoài có khả năng kinh doanh, nhà nước nên tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các nhà đầu tư. Điều này không những làm đa dạng hoá các thành phần tham gia mà còn nhằm phá vỡ thế độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trong một số ngành như điện lực, viễn thông, vận tải hàng không, đường sắt….
Thứ tư, chấn chỉnh thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư cơ sở hạ tầng theo hướng gọn nhẹ, mặt khác cần quản lý và kiểm soát chặt chẽ dự toán vốn đầu tư và hồ sơ đấu thầu của những dự án thuộc vốn ngân sách, tuyệt đối không phân bổ vốn cho những dự án chưa đủ điều kiện nhằm hạn chế thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
Như đã trình bày trong chương II, so với các yếu tố cơ sở hạ tầng truyền thống khác như đường xá, điện nước thì cơ sở hạ tầng thông tin ngày càng có vai trò quan trọng hơn trong môi trường đầu tư của các nước. Đặc biệt cơ sở hạ tầng thông tin của Việt Nam thuộc vào loại tụt hậu so với các nước trong khu vực, vì vậy yêu cầu phải cải thiện cơ sở hạ tầng thông tin đang trở nên cấp thiết và được chú trọng nhất trong chiến lược cải cách cơ sở hạ tầng cho đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
Vấn đề được quan tâm nhất hiện nay trong lĩnh vực công nghệ thông tin Việt Nam là chúng ta vẫn chưa tạo ra được một môi trường cạnh tranh lành mạnh
làm động lực để phát triển ngành. Tình trạng đôc quyền trong ngành đang tạo ra một sức ỳ nhất định, do đó các doanh nghiệp thông tin chưa thực sự nỗ lực hết mình trong công cuộc cải cách. Chính phủ cần xem xét cho phép mở của ngành viễn thông, cho phép nhiều công ty tham gia nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh làm động lực cho sự phát triển. Việc mở cửa cho nhiều công ty tham gia ngành sẽ buộc các công ty phải tự cải tổ và hoàn thiện, cắt giảm chi phí nhằm mục tiêu cung cấp các thiết bị và dịch vụ có chất lượng với giá thành hợp lý đến số đông người tiêu dùng. Cho phép các nhà ĐTNN tham gia vào thị trường viễn thông trong nước là một định hướng cần có sự xem xét và phê chuẩn kịp thời. Việc các nhà đầu tư tham gia vào thị trường viễn thông không chỉ tạo động lực cạnh tranh giữa các công ty và các nhà cung cấp mà còn đem lại những công nghệ tiên tiến và những kỹ năng kinh nghiệm quản lý và phát triển cho ngành công nghiệp mới của nước ta.
Hiện nay lực lượng lao động Việt Nam đang thiếu kỹ năng cần thiết để phát triển các phần mềm phức tạp. Một số lượng lớn các dự án phần mềm tại Việt Nam được ghi nhận là thất bại do gặp khó khăn trong việc đảm bảo yêu cầu về thời gian, chi phí và sáng tạo sản phẩm do đó không đáp ứng được nhu cầu và kỳ vọng của khách hàng. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề vi phạm bản quyền diễn ra phổ biến, khiến các nhà sản xuất không dám dầu tư nhiều vào nỗ lực phát triển. Các công ty ngần ngại sản xuất phục vụ thị trường trong nước. Như vậy có thể thấy tính cạnh tranh trong ngành công nghệ thông tin Việt Nam còn thấp. Vì vậy ngành công nghệ thông tin Việt Nam trước tiên cần tập trung đáp ứng thị trường trong nước và đào tạo xây dựng cho mình lực lượng lao động đủ năng lực. Trong quá trình xây dựng, ngành sẽ từng bước khai thác các cơ hội xuất khẩu. Trước hết việc xuất khẩu nên bắt đầu thông qua các thoả thuận hợp tác gia công với bên ngoài. Mặc dù giá trị gia tăng của hình thức này là thấp nhưng nó sẽ là sự khởi đầu tốt, phù hợp với năng lực và trình độ ngành công nghệ thông tin của chúng ta hiện nay.
4. Tiếp tục thực hiện lộ trình cắt giảm chi phí đầu tư.
Tính cạnh tranh từ môi trường đầu tư “rẻ” của Việt Nam đang dần thua kém các nước trong khu vực do sự tăng lên nhanh chóng của nhiều chi phí đầu tư.
Đặc biệt, lương tháng của cán bộ quản lý cấp trung gian tăng rất cao (hiện đã xấp xỉ 1000 USD, cao hơn nhiều Trung Quốc và Thái Lan). Phí thuê văn phòng cũng tăng nhiều trong những năm qua; cước viễn thông có giảm nhưng vẫn cao hơn một số nước trong khu vực….Trước thực trạng này, để tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư thì Việt Nam cần phải kiểm soát các chi phí đầu tư ở mức cạnh tranh. Sau đây là một số giải pháp nhằm giảm các chi phí đầu tư:
Thứ nhất là các giải pháp về môi trường kinh doanh: phải nhanh chóng cải cách bộ máy hành chính nhà nước, trong đó chú trọng đào tạo nhân lực trong các cơ quan quản lý; xây dựng qui trình xử lý nghiệp vụ thống nhất, đơn giản và hiệu quả hơn; xây dựng kế hoạch sản xuất, chiến lược giá cả và cạnh tranh trong dài hạn.
Thứ hai là các giải pháp về giảm chi phí kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh. Theo đó phải xây dựng các chính sách về đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề để giảm tỷ trọng chi phí nhân công trong giá thành sản phẩm. Quy hoạch và xây dựng cơ sở hạ tầng thuận tiện cho hoạt động đầu tư, sản xuất và lưu thông hàng hoá. Xúc tiến việc thành lập các doanh nghiệp vận tải biển quốc tế phục vụ đầy đủ nhu cầu vận tải trong nước. Khuyến khích các công ty bảo hiểm trong nước và các doanh nghiệp FDI thực hiện bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu tại các công ty bảo hiểm trong nước với chi phí bảo hiểm thấp hơn so với các công ty của nước ngoài. Chính phủ cần kiểm soát chặt thị trường bất động sản do thị trường bất động sản là một thị trường không hoàn hảo, dế dẫn đến những độc quyền trong cạnh tranh, tạo nên cơn sốt giả, nâng giá đất lên cao giả tạo, làm chi phí đầu tư FDI nước ta cao hơn so với các nước khác trong khu vực. Để giảm chi phí điện và viễn thông, không có cách nào khác là chính phủ nên cho phép mở rộng đối tượng đầu tư nhằm tạo nên tính cạnh tranh cao. Một điều hết sức quan trọng nữa là Nhà nước cần sớm có giải pháp triệt tiêu các chi phí phi chính thức. Nỗ lực giảm chi phí đầu tư phải được thực hiện với tầm nhìn quốc tế. Mục đích cuối cùng là để xác lập vị trí và quảng bá Việt Nam như là một trong những môi trường đầu tư có chi phí cạnh tranh nhất khu vực Đông Á.
5. Tăng cường khả năng cung cấp linh kiện và nguyên vật liệu trong nước.
Như đã phân tích trong chương II, việc thiếu các nhà cung cấp linh kiện và nguyên vật liệu trong nước đã làm giảm đi đáng kể lợi thế cạnh tranh của Việt Nam.