- Các dự án xây dựng công trình có vốn đầu tư dưới 15 tỷ đồng: công nghiệp nhẹ, sành sứ thủy tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông lâm, nuôi trồng thủy sản, chế biến nông lâm.
- Các dự án xây dựng công trình có vốn đầu tư dưới 7 tỷ đồng: y tế, văn hóa, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng khác (trừ khu nhà ở ), kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác.
1.3.2 Hoạt động tài trợ dự án của các DNVVN của ngân hàng
Trong giai đoạn phát triển kinh tế như hiện nay, nhu cầu vốn cho nền kinh tế là rất lớn, đặc biệt là nhu cầu vốn cấp thiết của các DNVVN ở Việt Nam. Tài trợ dự án ngày càng tỏ rõ những ưu điểm và trở thành kênh huy động vốn quan trọng của các chủ dự án. Xét trên góc độ Ngân Hàng, việc tài trợ cho các dự án của DNVVN thực chất là hoạt động cung cấp tài chính cho các dự án đầu tư (thực chất là ngân hàng cho vay) trong đó nhà đầu tư căn cứ chủ yếu vào dòng tiền phát sinh từ các dự án để hoàn tất trách nhiệm tài chính, căn cứ vào chính tài sản và năng lực sinh lợi của dự án là giá trị bảo đảm cho các trách nhiệm tài chính đối với các khoản vay tại ngân hàng. Tài trợ dự án là một vấn đề lớn, theo quan điểm của tác giả cách đơn giản mà các DNVVN ngày nay vẫn hy vọng tập trung vào nguồn tài trợ ổn định từ ngân hàng là thế chấp và đi vay. Thực sự, đó cũng chính là quá trình thẩm định cho vay của các tổ chức tín dụng đối với các DNVVN, tuy nhiên khả năng cho vay các dự án phụ thuộc nhiều vào quá trình sử dụng các chỉ số phân tích hiệu quả của chính bản thân dự án và chỉ số phân tích hoạt động của DN qua các năm để đề xuất cho vay, kết hợp với việc gia tăng trách nhiệm thông qua việc thẩm định các tài sản khác của DN.
Để cải thiện hoạt động kinh doanh của các DNVVN cần phải nhận được tài trợ vốn cho các dự án từ các Ngân Hàng để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua các hoạt động tín dụng chính như sau:
- Dựa vào mục đích của cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại sau:
+ Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp.
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân.
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp nâng cao chất lượng tài trợ dự án cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Vũng Tàu - 1
- Giải pháp nâng cao chất lượng tài trợ dự án cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Vũng Tàu - 2
- Khái Niệm, Phân Loại, Đặc Điểm Của Dự Án Đầu Tư.
- Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Dành Cho Các Dnvvn
- Các Tiêu Chí Định Lượng Riêng Cho Dnvvn Ở Ngân Hàng
- Thực Trạng Chất Lượng Tài Trợ Dự Án Tại Ngân Hàng Maritime Bank Vũng Tàu.
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
+ Cho vay mua bán bất động sản.
+ Cho vay sản xuất nông nghiệp.
+ Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu…
- Dựa vào thời hạn cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại sau:
+ Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn đến 1 năm. Mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.
+ Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 1 đến 5 năm. Mục đích
của loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
+ Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại
cho vay này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư.
- Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại sau:
+ Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
+ Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác.
- Dựa vào phương thức cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại sau:
+ Cho vay theo món vay: là loại cho vay mà mỗi lần vay vốn, khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: là loại cho vay mà tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
+ Cho vay theo hạn mức thấu chi: là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng.
- Dựa vào xuất xứ tín dụng, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại sau:
+ Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp trả nợ vay cho ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán như là: Chiết khấu thương mại; bao thanh toán.
1.3.3 Một số phương pháp đánh giá về chất lượng tài trợ dự án cho các DNVVN tại Ngân hàng
A) Phương pháp định tính:
+ Thực hiện đúng các quy định của pháp luật về cho vay, bảo lãnh, cho vay, cho thuê tài chính, chiết khấu, bao thanh toán và bảo đảm tiền vay. Xem xét và quyết định cho vay có bảo đảm bằng tài sản hoặc không có bảo đảm bằng tài sản, cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, tránh các vướng mắc khi xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ vay.
+ Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với hoạt động kinh
doanh, đối tượng khách hàng, tính chất rủi ro của các khoản nợ của tổ chức tín dụng
+ Kiểm tra và giám sát được thực hiện trước khi cho vay, trong khi cho vay và sau khi cho vay. Quá trình trên được kiểm tra trong quá trình cho vay, báo cáo hằng tháng, hằng quý.
+ Thực hiện đúng quy định giới hạn cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, bao thanh toán đối với một khách hàng và các tỷ lệ an toàn trong hoạt động kinh doanh.
+ Tổ chức tốt hệ thống thông tin tín dụng sẽ hỗ trợ đắc lực cho công tác thẩm định khách hàng vay, giúp hạn chế phòng ngừa rủi ro ngay từ khâu thẩm định hồ sơ vay.
+ Mở rộng tín dụng trung và dài hạn ở mức thích hợp, đảm bảo cân đối thời hạn cho vay với thời hạn của nguồn vốn huy động.
+ Phân tán rủi ro trong cho vay: không dồn vốn cho vay quá nhiều đối với một khách hàng hoặc không tập trung cho vay quá nhiều vào một ngành, lĩnh vực kinh tế có rủi ro cao.
+ Thực hiện tốt việc thẩm định khách hàng và khả năng trả nợ trước khi quyết định cấp tín dụng.
+ Mua bảo hiểm cho các khoản tiền gửi, tiền vay.
+ Có chính sách tín dụng hợp lý và duy trì các khoản dự phòng để đối phó với rủi ro.
B) Phương pháp định lượng.
Các chỉ số thường được đánh giá về hiệu quả tín dụng là:
ܶỷ ݈ệ ݊ợ ݍݑá ℎạ݊ = ܦư ݊ợ ݍݑá ℎạ݊
ܶổ݊݃ ݀ư ݊ợ ܿℎ ݒܽݕ
ݔ 100%
Quy định của Ngân Hàng Nhà Nước cho phép dư nợ quá hạn của các ngân hàng TM không được vượt quá 5%, nghĩa là trong 100 đồng vốn ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn tối đa chỉ được phép là 5 đồng
Nợ quá hạn (Non performing loan) là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ gốc hoặc lãi đã quá hạn
Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ. Để đảm bảo quản lý chặt chẽ các khoản nợ quá hạn trong hệ thống ngân hàng TM Việt Nam được phân loại theo thời gian và được phân chia thành các nhóm sau:
Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn), bao gồm:
- Các khoản nợ trong hạn và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc, lãi đúng hạn;
- Các khoản nợ quá hạn dưới 07 ngày và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc, nợ lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc, lãi đúng thời hạn còn lại. Nhóm 2 (Nợ cần chú ý), bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 07 ngày đến 90 ngày;
- Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu.
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu,
- Các khoản nợ được Ngân Hàng miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả nợ lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
- Các khoản trả thay đối với các khoản bảo lãnh, các khoản thanh toán đối với chấp nhận thanh toán quá hạn dưới 30 ngày tính từ ngày Ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ theo cam kết.
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ), bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ đã được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
- Các khoản trả thay đối với các khoản bảo lãnh, các khoản thanh toán đối với chấp nhận thanh toán quá hạn từ 30 ngày đến 90 ngày tính từ ngày Ngân Hàng phải thực hiện nghĩa vụ theo cam kết.
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn), bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn;
- Các khoản trả thay đối với các khoản bảo lãnh, các khoản thanh toán đối với chấp nhận thanh toán quá hạn từ 91 ngày trở lên tính từ ngày Ngân Hàng phải thực hiện nghĩa vụ theo cam kết.
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;
Tỷ trọng nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay:
Nợ xấu (Nợ có vấn đề, Nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ không thể đòi...) là khoản nợ mang các đặc trưng sau:
+ Khách hàng không thực hiện các nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng khi các cam kết này đã hết hạn.
+ Tình hình tài chính của khách hàng đang có chiều hướng xấu dần dẫn đến có khả năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi.
+ Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, có bảo lãnh) được đánh giá là giá trị
phát mãi không đủ trang trải nợ gốc và lãi.
+ Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005, nợ xấu của tổ chức tín dụng từ nhóm 3 đến nhóm 5 và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ không được vượt quá 3%.
Hệ số rủi ro tín dụng:
Tổng dư nợ cho vay
Hệ số rủi ro tín dụng =
Tổng tài sản có
x 100%
Hệ số này cho ta thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài sản có, khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng đồng thời rủi ro tín dụng cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng được chia thành 3 nhóm
1. Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu: là những khoản cho vay có mức độ rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân hàng. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
2. Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt: là những khoản cho vay có mức độ rủi ro thấp nhưng có thể mang lại thu nhập không cao cho ngân hàng. Đây cũng là những khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
3. Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình: là những khoản cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mang lại cho ngân
hàng là vừa phải. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng dư nợ
cho vay của ngân hàng. Tỷ lệ xóa nợ:
Tỷ lệ xóa nợ =
Các khoản xóa nợ ròng Tổng tài sản có
x 100%
1.3.4 Đặc thù tài trợ dự án của các DNVVN tại Ngân Hàng
Việc xác định hiệu quả tài chính của dự án có chính xác hay không tùy thuộc rất nhiều vào việc đưa ra các giả định ban đầu. Kết quả phân tích sẽ được lượng hóa thành những giả định để phục vụ cho quá trình tính toán cụ thể. Đánh giá về mặt thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án và phương án tiêu thụ sản phẩm sẽ được đưa vào để tính toán: Mức huy động công suất so với công suất thiết kế, doanh thu dự kiến hàng năm. Đánh giá về khả năng cung cấp vật tư, nguyên liệu đầu vào cùng với đặc tính của dây chuyền công nghệ để xác định giá thành đơn vị sản phẩm, tổng chi phí sản xuất trực tiếp. Căn cứ vào tốc độ luân chuyển vốn lưu động hàng năm của dự án, của các doanh nghiệp cùng nghành nghề và mức vốn lưu động tự có của chủ dự án để xác định nhu cầu vốn lưu động, chi phí vốn lưu động hàng năm.Các chế độ thuế hiện hành, các văn bản ưu đãi riêng đối với dự án để xác định phần trách nhiệm của chủ dự án đối với ngân sách. Nguồn trả nợ của khách hàng về cơ bản được huy động từ 3 nguồn chính gồm có: Lợi nhuận sau thuế để lại (thông thường bằng 50%- 70%), khấu hao cơ bản, các nguồn hợp pháp khác ngoài dự án.
Trong quá trình đánh giá hiệu quả về mặt tài chính của dự án, có hai nhóm
chỉ tiêu chính cần thiết phải đề cập, tính toán cụ thể, gồm có:
- Nhóm chỉ tiêu vể tỷ suất sinh lời của dự án (NPV, IRR, ROE đối với những
dự án có vốn tự có tham gia).
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng trả nợ: Nguồn trả nợ hàng năm, thời gian hoàn trả vốn vay, chỉ số đánh giá khả năng trả nợ dài hạn của dự án.
Trong đó, việc xây dựng các nhóm chỉ tiêu nhằm thực hiện đánh giá các chỉ
số cụ thể của các dự án là :
+ Công tác sơ bộ ban đầu về dự án đầu tư: Tổng mức đầu tư; Cơ cấu vốn đầu tư: chi phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chi phí vệ sinh môi trường, đến bù giải toả …..; Cơ cấu nguồn vốn đầu tư: Vốn tự có, vốn huy động, vốn vay, sản phẩm của dự án.
+ Hồ sơ pháp lý của dự án: Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi hoặc báo cáo đầu tư dự án, phương án vay vốn. Quyết định phê duyệt dự án của cấp có thẩm quyền. Thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán, quyết định phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán của cấp có thẩm quyền. Những dự án đặc thù nhóm A, B nếu chưa có thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán được duyệt thì trong quyết định đầu tư phải quyết định mức vốn của từng hạng mục chính và phải có thiết kế và dự toán hạng mục công trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Các quyết định, văn bản ban hành:Quyết định, văn bản chỉ đạo, tham gia ý kiến, các văn bản liên quan chế độ ưu đãi, hỗ trợ …. của các cấp, các ngành có liên quan (chính phủ, bộ kế hoạch và đầu tư, ngân hàng nhà nước, bộ khoa học công nghệ môi trường ….). Các tài liệu phê chuẩn báo cáo tác động môi trường, phòng cháy chữa cháy. Tài liệu đánh giá, chứng minh nguồn cung cấp nguyên vật liệu, thị trường dự án. Quyết định giao đất, cho thuê đất, hợp đồng thuê đất/nhà xưởng thực hiện dự án. Các văn bản liên quan đến đền bù, giải phóng mặt bằng, chuẩn bị mặt bằng xây dựng. Thông báo kế hoạch đầu tư hàng năm của cấp có thẩm quyền (đối với những dự án mới, vay vốn theo kế hoạch nhà nước được giao). Thông báo chỉ tiêu kế hoạch đầu tư đối với doanh nghiệp là thành viên của tổng công ty.Báo cáo khối lượng đầu tư hoàn thành, tiến độ triển khai thực hiện dự án. Tài liệu chứng minh về vốn đầu tư hoặc nguồn vốn tham gia đầu tư dự án (nếu đã thực hiện đầu tư hoặc dự án có nhiều nguồn vốn tham gia đầu tư). Giấy phép xây dựng, bảng vẽ thiết kế, các văn bản liên quan đến quá trình đấu thầu thực hiện dự án: phê duyệt kế hoạch đấu thầu, kết quả đấu thầu, hợp đồng giao nhận thầu. Hợp đồng thi công xây lắp, cung cấp thiết bị, phê duyệt hợp đồng nhập khẩu thiết bị, các hợp đồng tư vấn.
+ Đánh giá về nhu cầu sản phẩm của dự án: Sản phẩm dự án là sản phẩm
mới hay đã có trên thị trường.Tổng nhu cầu hiện tại về sản phẩm, dịch vụ đầu ra của