thể hiện bằng hoạt động rằng, ngân hàng luôn đáp ứng mọi nơi, mọi lúc nhu cầu rút tiền của khách hàng gửi tiền. Đây là thông điệp bất di bất dịch, mà ngân hàng luôn phải có trách nhiệm thực hiện đối với khách hàng.
Tính thanh khoản của ngân hàng được hiểu là trạng thái luôn có lượng tiền khả dụng ở thời điểm cần thiết với chi phí thấp nhất khi ngân hàng có nhu cầu và khả năng nhanh chóng huy động được vốn thông qua vay nợ hoặc bán tài sản đáp ứng nhu cầu đó 7. Tính thanh khoản của một ngân hàng phải được xem xét ở từng thời điểm cụ thể
và ở những thời điểm khác nhau, tính thanh khoản của ngân hàng là có thể là khác nhau.
Tài sản Nợ ( TSN) : bao gồm tất cả những khoản nợ, những nghĩa vụ tài chính của ngân hàng và ngân hàng được sử dụng phục vụ cho hoạt động kinh doanh và có trách nhiệm trả trong một khoảng thời gian nhất định.8
Tài sản Có ( TSC) là các tài sản mà ngân hàng có quyền sở hữu (bao gồm các quyền chiếm hữu, sử dụng và định hoạt) một cách hợp pháp, chúng là kết quả của các hoạt động trước đó, hiện đang được sử dụng cho những mục đích khác nhau nhằm mang lại thu nhập cho ngân hàng, tính đến một thời điểm nhất định. Ở một góc độ tiếp cận khác, TSC là kết quả của việc sử dụng vốn của ngân hàng, là những tài sản được hình thành từ các nguồn vốn của ngân hàng trong quá trình hoạt động.
Vốn khả dụng: là lượng TSC động mà ngân hàng có thể sử dụng ngay để thực hiện các nghĩa vụ trong thanh toán, chi trả theo yêu cầu của bên thụ hưởng. Thông thường, vốn khả dụng của NHTM bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại NHNN, tiền gửi thanh toán tại các NHTM khác - những tài sản mà ngân hàng có thể sử dụng ngay bất kỳ lúc nào. 9
Dự trữ thanh toán: là khoản dự trữ nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của Ngân hàng với khách hàng. Dự trữ thanh toán bao gồm vốn khả dụng và các TSC có tính thanh khoản cao khác như: Các giấy tờ có giá có khả năng chuyển đổi nhanh thành tiền với chi phí thấp, bao gồm tín phiếu NHNN, tín phiếu Kho bạc Nhà nước, trái phiếu chính phủ.10
Có thể bạn quan tâm!
- Một số biện pháp phát triển hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản tại ngân hàng VP bank - 1
- Một số biện pháp phát triển hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản tại ngân hàng VP bank - 2
- 2. Quản Trị Rủi Ro Thanh Khoản Tại Ngân Hàng Thương Mại
- Một số biện pháp phát triển hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản tại ngân hàng VP bank - 5
- Một Số Ví Dụ Về Rủi Ro Thanh Khoản Nổi Tiếng Và Bài Học Cho Các Ngân Hàng
Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.
7 Nguyễn Văn Tiến ( 2007)- Quản trị Rủi ro trong Kinh doanh Ngân hàng – Nhà xuất bản Thống kê.
8 Peter Rose ( 2004) – Quản trị ngân hàng thương mại- Nhà xuất bản tài chính.
9 Quyết định 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/01/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Cung thanh khoản (còn gọi là luồng tiền vào): là khả năng cung ứng tiền của ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, bao gồm việc bán tài sản thanh khoản, khả năng huy động vốn mới và thu hồi các khoản cho vay đến hạn.10
Cầu thanh khoản (còn gọi là luồng tiền ra): là nhu cầu thanh toán của khách hàng mà ngân hàng có nghĩa vụ đáp ứng, bao gồm yêu cầu chi trả từ tài khoản tiền gửi và nhu cầu vay của khách hàng.10
Khe hở thanh khoản: là chênh lệch giữa cung và cầu thanh khoản tại một thời điểm nhất định trong tương lai.10
Khủng hoảng thanh khoản: là tình huống ngân hàng không có khả năng đáp ứng nhu cầu chi trả của khách hàng (trong khoảng vài ngày làm việc).10
Cần phân biệt cơ chế hoạt động của ngân hàng và khả năng thanh khoản của ngân hàng. Cơ chế hoạt động của ngân hàng đã được thể hiện qua bản chất là tổ chức đi vay để cho vay, kinh doanh tiền tệ. Hoạt động theo cơ chế đó, nguyên tắc chi phối hoạt động của ngân hàng là lợi nhuận liên tục tăng trưởng. Còn tính thanh khoản của ngân hàng thể hiện nguyên tắc tồn tại hay không tồn tại của một tổ chức kinh doanh bằng tiền đi vay. Nguyên tắc đó là luôn đảm bảo chi trả nguồn tiền cho khách hàng. Như thế, có thể ngân hàng đang có trạng thái kinh doanh tốt ở một khoảng thời gian nhất định, thể hiện qua các chỉ số về lợi nhuận, hệ số vòng quay của vốn, các chỉ số ROA, ROE…, nhưng chưa chắc ngân hàng đó đã có trạng thái thanh khoản cao.
I.2.1.2. Khái niệm rủi ro thanh khoản
Khi ngân hàng không có khả năng thanh khoản hay không thể đáp ứng được yêu cầu về lượng tiền mặt rút ra khỏi ngân hàng thì được gọi là ngân hàng đã gặp rủi ro về thanh khoản.
Rủi ro thanh khoản là rủi ro khi ngân hàng không có khả năng thanh toán hoặc phải huy động vốn với chi phí cao để đáp ứng nhu cầu thanh toán hoặc các nguyên nhân chủ quan khác làm mất khả năng thanh toán của NHTM. 11
10 Hoàng Huy Hà- Quản trị rủi ro thanh khoản tại ngân hàng Việt Nam- thực trạng và giải pháp - Bài tham luận “Hội hảo quản trị rủi ro thanh khoản”
11 Nguyễn Văn Tiến ( 2007)- Quản trị Rủi ro trong Kinh doanh Ngân hàng – Nhà xuất bản Thống kê.
Rủi ro thanh khoản là một loại rủi ro chủ yếu của NHTM, đó cũng có thể là tổng hợp của nhiều loại rủi ro khác nhau, nhưng là nguyên nhân trực tiếp có thể dẫn đến khủng hoảng thanh khoản, là nguy cơ đặc biệt nghiêm trọng có thể dẫn đến phá sản tại thời điểm mặc dù khả năng tài chính của NHTM vẫn đảm bảo, kinh doanh không bị thua lỗ, nhưng tại một thời điểm nào đó NHTM bị mất khả năng thanh toán.
I.2.2. Phân loại rủi ro thanh khoản
Theo một số nghiên cứu thì rủi ro thanh khoản được thống nhất phân chia làm 3 loại: rủi ro thanh khoản có thể đến từ hoạt động bên TSN hoặc bên TSC, hoặc từ hoạt động ngoại bảng của bảng cân đối tài sản của NHTM.
I.2.2.1. Rủi ro thanh khoản bên TSN
Rủi ro thanh khoản đến từ bên TSN có thể phát sinh bất cứ lúc nào khi người gửi tiền rút tiền trước hạn và cả khi đến hạn, nhưng NHTM không sẵn có nguồn vốn để thanh toán, để chi trả. Với một lượng tiền gửi được yêu cầu rút ra lớn và đột ngột buộc NHTM phải đi vay bổ sung trên thị trường tiền tệ, phải huy động vốn đột xuất với chi phí vượt trội, hoặc bán bớt tài sản để chuyển hoá thành vốn khả dụng đáp ứng nhu cầu chi trả. Khi đó để đáp ứng nhu cầu ngay lập tức NHTM có thể phải bán tài sản với giá thấp hơn thị trường rất nhiều để có lượng vốn khả dụng cần thiết. Trong trường hợp khác NHTM cũng có thể đi vay trên thị trường nhưng cũng do nhu cầu gấp về thời gian nên NHTM có thể phải vay với lãi suất cao hơn thị trường và cao hơn trường hợp mà NHTM có thời gian để tìm kiếm nguồn thanh khoản với chi phí rẻ hơn. Như vậy để giải quyết rủi ro thanh khoản từ bên TSN, NHTM phải hao tổn một nguồn lực tài chính đáng kể đáp ứng nhu cầu thanh toán.
I.2.2.2. Rủi ro thanh khoản bên TSC
Rủi ro thanh khoản từ bên TSC chủ yếu phát sinh liên quan đến việc thực hiện các cam kết tín dụng, cho vay. Một cam kết tín dụng cho phép người vay vốn tiến hành rút tiền bất cứ lúc nào trong thời hạn theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khi một người vay yêu cầu NHTM thực hiện cam kết tín dụng thì ngân hàng phải đảm bảo đủ tiền ngay lập tức để đáp ứng nhu cầu của khách hàng nếu không ngân hàng sẽ phải đối mặt với uy tín trên thương trường, thậm chí đối mặt với mất khả năng thanh toán. Khi đó NHTM sẽ phải huy động thêm nguồn vốn mới với chi phí cao hoặc bán tài sản với giá
thấp. Điều này đương nhiên là ảnh hưởng đến năng lực tài chính, ảnh hưởng đến lợi nhuận của NHTM.
I.2.2.3. Rủi ro thanh khoản từ hoạt động ngoại bảng
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các công cụ tài chính phái sinh, rủi ro thanh khoản đến từ hoạt động ngoại bảng cũng ngày càng tăng. Khi mà các nghĩa vụ thanh toán bất thường xảy ra như cam kết bảo lãnh, nghĩa vụ thanh toán các hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi hay hợp đồng quyền chọn. Các hợp đồng đó đến hạn thì sẽ phát sinh nhu cầu thanh khoản. Khi đó NHTM có thể phải đối mặt với rủi ro thanh khoản nếu không có kế hoạch chuẩn bị nguồn thanh khoản kịp thời, không có những tài sản nhanh chóng hay dễ dàng chuyển thành tiền, những công cụ có thể giao dịch trên thị trường tiền tệ.
I.2.3. Nguyên nhân gây ra rủi ro thanh khoản
Nguyên nhân gây nên rủi ro thanh khoản có nhiều và nó đến từ mọi phía trong hoạt động kinh doanh ngân hàng: Từ chủ quan, khách quan; từ bản thân ngân hàng, từ khách hàng, cơ chế chính sách, từ các loại rủi ro khác đưa lại ...Tuy nhiên, trên góc độ nghiên cứu để tìm giải pháp hiệu quả đối với quản trị rủi ro thanh khoản, khóa luận đưa ra những loại nguyên nhân chủ yếu sau:
I.2.3.1. Nguyên nhân khách quan
a. Nguyên nhân vĩ mô
Do tình hình kinh tế thế giới ảnh hưởng đến nền kinh tế - tài chính của một quốc gia nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Khủng hoảng kinh tế dẫn tới chi phí huy động vốn tăng cao, ngược lại hiệu quả hoạt động cho vay và đầu tư giảm sút. Xét ở một khía cạnh khác, khủng hoảng xảy ra làm giảm sút niềm tin vào hệ thống tài chính. Tổ chức và dân cư sẽ tiến hành rút tiền ồ ạt tại các NHTM, bất kể kỳ hạn. Trong khi đó thì các NHTM đã “trót” rót vốn vào các hoạt động đầu tư và cho vay dài hạn nên không thể đáp ứng kịp nhu cầu rút ồ ạt nói trên. Như vậy, rủi ro thanh khoản xảy ra. Đây đang là thực tế trong điều kiện kinh tế Việt nam hiện tại mà các NHTM cũng là nạn nhân.
Thứ hai tăng trưởng tín dụng quá nóng cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro thanh khoản. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NHTM năm 2007 là 53,89% 12. Sự tăng
12 Nguyễn Thị Mùi- Đảm bảo thanh khoản- yếu tố quyết định sự phát triển bền vững của ngân hàng thương mại- Bài tham luận “Hội thảo quản trị rủi ro thanh khoản”.
trưởng tín dụng quá nóng của các NHTM đi kèm với cơ cấu đầu tư không hợp lý, tập trung lớn vào đầu tư bất động sản chạy theo lợi nhuận sẽ phát sinh rủi ro cao khi thị trường đóng băng, tạo sự mất cân đối về kỳ hạn giữa TSC và TSN do ngân hàng đã sử dụng quá nhiều nguồn vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn, chính điều này đã tạo ra sự rủi ro thanh khoản cao đối với NHTM.
b. Nguyên nhân từ phía khách hàng
Do cầu thanh khoản tăng đột biến vì những nguyên nhân không lành mạnh như cạnh tranh hay tung tin đồn. Điều này khiến cho khách hàng hoang mang và ồ ạt đi rút tiền. Với số lượng tiền rút lớn trong khi ngân hàng chưa thu hồi được các khoản vay khiến cho khả năng thanh khoản của ngân hàng bị đe dọa nghiêm trọng.
Nhu cầu thanh khoản của khách hàng luôn đòi hỏi ở mức ngày càng cao: Những vướng mắc về thanh khoản, tức khắc làm xói mòn niềm tin của công chúng vào ngân hàng. Và hậu quả cũng tương tự như trên, đó là cầu thanh khoản sẽ tăng đột ngột.
I.2.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân đầu tiên liên quan đến trình độ và nghiệp vụ của các nhân viên trong các ngân hàng. Do chiến lược quản trị của các ngân hàng thực hiện thiếu bài bản và do sự yếu kém của công tác kế hoạch hóa, các ngân hàng không thể dự tính trước được nhu cầu các khoản cho vay cũng như việc dự đoán nhu cầu rút tiền của khách hàng. Khi nhu cầu rút tiền vượt quá mức dự tính, các ngân hàng này sẽ gặp khó khăn về thanh khoản. Nhân viên nhìn nhận hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung, hoạt động thanh khoản nói riêng là một màu hồng đến khi gặp sự cố không chống đỡ kịp;
Một nguyên nhân chủ quan khá phổ biến nữa là các NHTM là “chạy theo phong trào”, trong đó có các phong trào đáng chú ý: như các áp lực tăng lợi nhuận bằng mọi giá; áp lực tăng tổng tài sản; áp lực tăng dư nợ, lôi kéo khách hàng; hay áp lực chạy đua, ai làm gì thì mình phải làm cái nấy để không thua kém ai…dẫn đến hậu quả khó lường. Điển hình là một số ngân hàng chạy theo mục tiêu lợi nhuận trước mắt nên có những chính sách cho vay quá cởi mở, dẫn đến hạ thấp các điều kiện cho vay, các khách hàng vay có điều kiện kém, hệ quả tất yếu là rủi ro tín dụng và sau đó là rủi ro thanh khoản. Ví dụ như vụ cho vay thế chấp nhà tại Mỹ: khủng hoảng tín dụng cho vay thế chấp nhà với đối tượng thu nhập thấp.
Nguyên nhân thứ ba là do đặc điểm của tài sản tài chính: Sự nhạy cảm của tài sản tài chính với những thay đổi lãi suất. Khi lãi suất tăng, nhiều người gửi tiền sẽ rút
tiền ra tìm kiếm nơi gửi khác có mức lãi suất cao hơn; điều này xảy ra ngay cả trong hệ thống giữa các NHTM với nhau (tiền từ ngân hàng này chạy sang ngân hàng khác);
... Những người có nhu cầu tín dụng sẽ hoãn lại, hoặc rút hết số dư hạn mức tín dụng với mức lãi suất thấp đã thoả thuận. Như vậy, thay đổi lãi suất ảnh hưởng đồng thời đến luồng tiền gửi cũng như luồng tiền vay, và cuối cùng là đến thanh khoản của ngân hàng. Ngoài ra, lãi suất thay đổi sẽ ảnh hưởng đến thị giá của các tài sản mà ngân hàng đem bán để tăng thanh khoản, và trực tiếp ảnh hưởng đến chi phí đi vay trên thị trường tiền tệ của ngân hàng. Bên cạnh đó, lạm phát cũng khiến cho khách hàng e dè, không còn tin tưởng gửi tiền ở ngân hàng nữa mà chuyển sang các hình thức giữ tiền an toàn hơn như vàng hoặc ngoại tệ khiến cho lượng tiền gửi vào ngân hàng ít và lượng tiền rút ra thì nhiều.
Nguyên nhân thứ tư là do sử dụng mất cân đối về thời hạn giữ nguồn vốn vốn huy động và đầu tư vốn: Ngân hàng huy động vốn với thời hạn ngắn, nhưng thực tế các ngân hàng thường sử dụng cho vay với thời hạn dài hơn. Điều này, tất yếu dẫn đến không trùng khớp về thời hạn đến hạn giữa TSC và TSN. Thực tế này do chính ngân hàng gây ra và sự đối mặt với tiềm ẩn về rủi ro thanh khoản xảy ra bất cứ lúc nào. Trên thực tế, ít khi có luồng tiền ròng bên TSC lại vừa khít để trang trải luồng tiền ròng bên TSN. Mà mất cân đối là chủ yếu, và thường là nguồn thanh khoản thấp hơn nhu cầu thanh toán. Nếu xuất hiện nhu cầu thanh khoản lớn, lúc này rủi ro thanh khoản sẽ xảy ra. Thực tế, các ngân hàng thường có một tỷ lệ đáng kể ở TSN có đặc điểm là phải hoàn trả tức thời, khi người gửi có nhu cầu, như tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn có thể rút trước hạn, tài khoản NOW... do đó, ngân hàng luôn phải sẵn sàng thanh khoản.
Nguyên nhân thứ năm là do tính liên kết hệ thống giữa các NHTM để đảm bảo an toàn thanh toán còn yếu, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo khe hở cho khách hàng gửi tiền “làm giá, tăng lãi suất” hoặc rút tiền chuyển sang các NHTM khác dẫn đến làm suy yếu khả năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của hệ thống.
Nguyên nhân thứ sáu, các ngân hàng có vốn chủ sở hữu quá nhỏ bé, chẳng hạn như các ngân hàng tư nhân trong vụ khủng hoảng thanh khoản tại Nga, 90% ngân hàng
ở đây có số vốn dưới 10 triệu USD 13. Các ngân hàng nhỏ thường khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn, hoặc chỉ vay được với lãi suất cao, đặc biệt là đối với nguồn vốn vay, áp lực là rất lớn khi các ngân hàng này phải gánh chịu chi phí cao để có thể khắc phục khó khăn trong việc giải quyết vấn đề thanh khoản. Vì vậy, nhiều ngân hàng do tiềm lực vốn tự có mỏng nên phải "bóc ngắn, cắn dài". Họ sử dụng một tỷ lệ lớn nguồn vốn huy động ngắn hạn để đầu tư vào các lĩnh vực dài hạn và nhiều rủi ro như bất động sản và chứng khoán. Đây là việc đầu tư rất mạo hiểm rất dễ rất đến rủi ro thanh khoản.
Điều quan trọng mà các nhà quản trị ngân hàng phải quan tâm hàng đầu trong quản trị rủi ro thanh khoản là ngân hàng có thể bị đóng cửa (thu hồi giấy phép kinh doanh), trong trường hợp ngân hàng không tăng đủ và kịp thời nguồn thanh khoản, dù rằng khả năng thanh khoản cuối cùng của ngân hàng là tốt. Điều này, đòi hỏi quản trị rủi ro thanh khoản trong kinh doanh ngân hàng phải thường xuyên coi trọng và phải trở thành vấn đề thường trực.
II. Quản trị rủi ro thanh khoản của NHTM
II.1. Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
II.1.1. Khái niệm
Bản chất hoạt động kinh doanh của các NHTM là dùng uy tín để thu hút nguồn vốn và dùng năng lực quản trị rủi ro để sử dụng nguồn vốn và phát triển dịch vụ khác một cách hiệu quả. Do đó, hoạt động kinh doanh của ngân hàng bao gồm rất nhiều rủi ro. Các ngân hàng cần đánh giá cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro - lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro có thể chấp nhận được. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà ngân hàng gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được chứ không thể chối bỏ rủi ro. Quá trình đánh giá và và kiểm soát rủi ro đó được gọi là quản trị rủi ro.
Quản trị rủi ro của các NHTM có thể hiểu là quá trình tác động có tổ chức, có hướng đích của các nhà quản trị ngân hàng lên các đối tượng quản trị và khách thể kinh doanh nhằm mục tiêu phòng ngừa, hạn chế và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh từ đó
13 http://www.doanhnhan360.com.vn
nâng cao mức độ an toàn, khả năng sinh lời và đạt được các mục tiêu tăng trưởng ngắn hạn và dài hạn của các ngân hàng 14.
Việc xây dựng một hệ thống quản trị rủi ro có vai trò sống còn đối với hoạt động ngân hàng. Hoạt động quản trị rủi ro giúp xác định và kiểm soát rủi ro ở mức có thể chấp nhận được. Chủ tịch tập đoàn tài chính Citigroup Walter Wriston đã nói lên vai trò quan trọng của hoạt động quản trị rủi ro như sau: ” Toàn bộ cuộc sống trong ngân hàng là quản trị rủi ro” 15. Hoạt động quản trị rủi ro do đó là một bộ phận cốt lõi trong toàn bộ các hoạt
động ngân hàng. Hiệu quả kinh doanh của NHTM tùy thuộc vào năng lực quản trị rủi ro và là thước đo năng lực của một NHTM.
II.1.2. Quy trình quản trị rủi ro
Mỗi ngân hàng đều có một quy trình quản trị rủi ro riêng, phù hợp với từng quy mô, năng lực của mình. Nhưng nhìn chung, để quản trị rủi ro, các NHTM đều tuân theo các bước sau.
a. Xác định rủi ro
Từ các thông tin, nhận xét phán đoán của ban quản trị rủi ro, NHTM sẽ nhận biết là mình đang có nguy cơ phải đối mặt với loại rủi ro nào. Rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất hay rủi ro thanh khoản, rủi ro vận hành... Mỗi loại rủi ro đều có nhưng đặc điểm để phán đoán riêng.
b. Phân tích, đo lường rủi ro
Trên cơ sở các rủi ro đã được nhận biết, ban quản trị rủi ro của NHTM sẽ thu thập số liệu thông tin để đo lường mức độ rủi ro đó bằng các phương pháp định tính và định lượng. Bằng cách này, NHTM sẽ biết được chính xác mức độ nguy hiểm của rủi ro mà ngân hàng đang gặp phải.
c. Đưa ra các biện pháp quản trị rủi ro
Sau khi đánh giá được các rủi ro đó, đo lường được mức độ rủi ro, ngân hàng sẽ đưa ra biện pháp quản trị thích hợp. Bằng cách này, NHTM sẽ không còn bất ngờ trước các rủi ro và có khả năng kiểm soát được rủi ro.
d. Kiểm tra kiểm soát rủi ro
14 Nguyễn Thị Quy ( 2008) – Quản trị rủi ro trong doanh nghiệp - Nhà xuất bản văn hóa- thông tin.
15 Trần Quốc Quýnh (2008)- “ Những rủi ro lớn của các ngân hàng Mỹ”- Tạp chí ngân hàng ( 17) tr 33.