tài chính và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng thanh khoản của ngân hàng. Tuy nhiên tỷ giá liên ngân hàng được chứng minh là không đáng kể trong nghiên cứu này.
Pavla Vodova (2013) nghiên cứu các yếu tố quyết định khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại Hungary. Các dữ liệu bao gồm báo cáo hàng năm của 24 ngân hàng trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2010. Nghiên cứu đo lường biến phụ thuộc là khả năng thanh khoản theo ba cách:
L1 = tài sản thanh khoản/Tổng tài sản
L2 = tài sản thanh khoản/(tiền gửi+nguồn vốn ngắn hạn) L3 = tài sản thanh khoản/tổng tiền gửi
Các biến độc lập bao gồm: (1) tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR); (2) lãi suất cho vay; (3) quy mô ngân hàng (SIZE), (4) lợi nhuận biên (NIM); (5) Chính sách tiền tệ; (6) lãi suất liên ngân hàng; (7) tăng trưởng kinh tế (GDP). Nghiên cứu sử dụng phần mềm EViews 7. Sau khi kiểm tra các điểm dừng, tiến hành ước lượng hồi quy. Kết quả phân tích hồi quy dữ liệu bảng cho thấy tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, lãi suất cho vay có mối quan hệ thuận chiều đến thanh khoản của ngân hàng; trong khi quy mô ngân hàng, lợi nhuận biên, chinh sách tiền tệ và lãi suất liên ngân hàng có mối quan hệ trái chiều đến thanh khoản, cả hai yếu tố này dẫn đến hoạt động cho vay của các ngân hàng cao hơn và do đó làm giảm tính thanh khoản của ngân hàng. Mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng GDP và thanh khoản ngân hàng là không rò.
Ganic Mehmed (2014) nghiên cứu các yếu tố quyết định đến rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng ở Bosnia và Herzegovina (B & H). Dữ liệu của nghiên cứu này sử dụng mẫu của 17 ngân hàng thương mại tại B & H trong giai đoạn 2002- 2012. Trong phần thực nghiệm của các nghiên cứu phân tích hồi quy đa biến sẽ được áp dụng với mục đích để kiểm tra ý nghĩa thống kê và khả năng giải thích của các biến được lựa chọn bằng cách sử dụng các kỹ thuật phân tích dữ liệu khác nhau như: Tương quan, R-squared, ANOVA và F-test. Mô hình này được thử nghiệm hai lần cho biến phụ thuộc là rủi ro thanh khoản LR1 (tài sản thanh khoản/tổng tài sản) và LR2 (tài sản thanh khoản/tiền gửi+nguồn vốn ngắn hạn) và các biến độc lập như sau:
Yit = f (CAP, NPL, ROE, LLR, GDP, INF, IRM)
Phân tích các kết quả nghiên cứu được dựa trên việc tính toán và phân tích các hệ số tương quan tuyến tính. Vì vậy, nghiên cứu này đã được thực hiện để điều tra ảnh hưởng của các yếu tố quyết định của rủi ro thanh khoản ngân hàng trong lĩnh vực ngân hàng tại B & H. Nghiên cứu cho thấy mô hình LR2 có tốt hơn sau khi điều chỉnh R Squared (33,85%). Các yếu tố quyết định thanh khoản trong hệ thống ngân hàng khác nhau, tùy thuộc vào các biến được chọn là biến phụ thuộc. Trong mô hình LR1 là biến phụ thuộc, các biến ảnh hưởng nhiều đến rủi ro thanh khoản là: NPL, ROE; LLR (RR và LTD). Ở mô hình LR2 các biến ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản là CAP, LLR (RR và LTD). Vì nó được giả định, RR là biến có tác động tích cực đến rủi ro thanh khoản trong cả hai mô hình hồi quy, trong khi LTD là biến có mối quan hệ trái chiều với LR1,và có mối quan hệ cùng chiều với LR2.
Agnieszka Wofcik-Mazur, Marek Szajt (2015) nghiên cứu các yếu tố tác động đến rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng thương mại trong Liên minh Châu Âu. Các cơ sở dữ liệu của 84 ngân hàng đại diện cho bảy quốc gia (Bulgaria, Cộng hòa Séc, Hungary, Ba Lan, Romania, Slovenia, Slovakia) - thành viên mới của EU và 392 ngân hàng đại diện cho 12 thành viên cũ (Áo, Bỉ, Đức, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Phần Lan, Pháp, Anh, Hy Lạp, Ireland, Ý, Bồ Đào Nha). Tác giả đưa ra mô hình với biến phụ thuộc là rủi ro thanh khoản và được đo lường theo hai hệ số như sau: LR1 = Tài sản thanh khoản/(tiền gửi+nguồn vốn ngắn hạn) và LR2 = Các khoản cho vay/ Tổng tài sản. Các biến độc lập bao gồm các biến bên trong ngân hàng: (1) tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản (ETA); (2) lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (NIM); (3) tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA); (4) Lãi suất liên ngân hàng;
(5) Quy mô ngân hàng (SIZE). Các biến kinh tế vĩ mô: Lạm phát (INF) và tăng trưởng kinh tế (GDP). Theo lý thuyết được trình bày bởi Engle và Granger (1987) mô hình kinh tế nên được bắt đầu bằng việc phân tích các thuộc tính chuỗi thời gian
- chủ yếu về tính dừng. Đây loại của mô hình được tính đến cả ngắn hạn và mối quan hệ lâu dài. Nghiên cứu cho thấy các yếu tố quyết định đến rủi ro thanh khoản cho các ngân hàng hoạt động tại các nước thành viên Châu Âu cũ là hơi khác so với các ngân hàng hoạt động tại các nước thành viên Châu Âu mới. Hơn nữa, mối quan hệ giữa vi mô và kinh tế vĩ mô yếu tố cũng phụ thuộc vào các yếu tố dự báo thanh khoản. Tuy nhiên, nhóm các yếu tố quyết định bên trong ngân hàng có ảnh
hưởng đến mức độ rủi ro thanh khoản bất kể dưới hình thức đo lường rủi ro thanh khoản nào. Yếu tố quyết định kinh tế vĩ mô ảnh hưởng khác nhau đến mức độ rủi ro thanh khoản.
Mohamed Aymen Ben Moussa (2015) nghiên cứu các yếu tố quyết định đến khả năng thanh khoản của các ngân hàng ở Tunisia. Tác giả sử dụng mẫu của 18 ngân hàng tại Tunisia trong giai đoạn từ năm 2000- 2010, tồng số mẫu quan sát là 198. Số liệu tài chính được thu thập thông qua các trang web của các hiệp hội nghề nghiệp của các ngân hàng tại Tunisia trong giai đoạn (2000-2010). Dữ liệu kinh tế vĩ mô được thu thập từ trang web của ngân hàng trung ương tại Tunisia và tổ chức thống kê quốc gia. Nghiên cứu đo lường biến phụ thuộc là khả năng thanh khoản bằng hai cách (tài sản thanh khoản /tổng tài sản, tổng vay / tổng tài sản). Các biến độc lập bao gồm: (1) Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sàn ROA; (2) Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ROE; (3) Lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (NIM); (4) Tỷ lệ dự trữ thanh khoản (ALA); (5) Tổng cho vay trên tổng tài sản (TLA); (6) Chi phí hoạt động trên tổng tài sản (CEA); (7) Quy mô ngân hàng (SIZE); (8) Tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản CAP; (9) Tốc độ tăng trưởng GDP; (10) Lạm phát INF. Thông qua phương pháp của bảng điều khiển tĩnh và phương pháp của bảng điều khiển động, kết quả cho thấy tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản, chi phí hoạt động trên tổng tài sản, tỷ lệ dự trữ thanh khoản, tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát có mối quan hệ cùng chiều với thanh khoản, trong khi quy mô ngân hàng, tổng cho vay trên tổng tài sản không có một tác động đáng kể đến thanh khoản của ngân hàng.
Khoutern Ben Jedidia và cộng sự (2015) nghiên cứu các yếu tố tác động đến rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng Hồi giáo. Dữ liệu nghiên cứu này sử dụng mẫu của 60 ngân hàng Hồi giáo của 15 quốc gia đến từ MENA và Đông Nam Á trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2012 với tổng số 344 quan sát. Dữ liệu đặc trưng của ngân hàng được thu thập từ dữ liệu trên trang web tài chính Zawya Hồi giáo. Dữ liệu kinh tế vĩ mô được thu thập từ các chỉ số của Ngân hàng Thế giới. Nghiên cứu đo lường biến phụ thuộc là rủi ro thanh khoản với hai tỷ số: (1) LR1 = Vốn vay/tổng tài sản và (2) LR2 = Tiền mặt/tổng tài sản. Các biến độc lập bao gồm: qui mô ngân hàng (SIZE); tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR); tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA); tốc độ tăng trưởng (GDP); tỷ lệ đầu tư; sự phụ thuộc các ngân
hàng nước ngoài. Tác giả sử dụng các ước lượng GMM cho phép để sửa sai lệch gây ra bởi biến giải thích nội sinh. Kết quả cho thấy chỉ số ROA có mối quan hệ cùng chiều với thanh khoản; trong khi đó chỉ số CAR, tỷ lệ đầu tư, sự phụ thuộc các ngân hàng nước ngoài có mối quan hệ trái chiều đến rủi ro thanh khoản. Tuy nhiên, quy mô ngân hàng, tăng trưởng kinh tế không ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản.
Trương Quang Thông (2013): phân tích các nhân tố tác động đến rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, bài nghiên cứu này được trích dẫn từ Tạp chí Phát triển kinh tế 276 (10/2013) 50-62. Nghiên cứu này nhằm nhận diện những nguyên nhân của rủi ro thanh khoản đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ báo cáo thường niên của 27 NHTM Việt Nam từ năm 2002 đến năm 2011, bao bồm 212 quan sát. Theo mô hình nghiên cứu , biến phụ thuộc là “Khe hở tài trợ” được đo lường bằng cách lấy chênh lệch giữa các khoản tín dụng và huy động vốn chia cho tổng tài sản, các biến độc lập được chia làm 2 nhóm:
Rủi ro thanh khoản ảnh hưởng bởi các biến độc lập bên trong ngân hàng:
Quy mô tổng tài sản (SIZE)
Tỷ lệ dự trữ thanh khoản trên tổng tài sản (LRA)
Sự phụ thuộc các nguồn tài trợ bên ngoài (EFD)
Tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản (ETA)
Tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản (TLA)
Dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ (LLPTL)
Rủi ro thanh khoản ảnh hưởng bởi các biến độc lập bên ngoài ngân hàng là các biến kinh tế vĩ mô:
Tăng trưởng kinh tế (GDP)
Thay đổi lạm phát (INF)
Thay đổi cung tiền (M2)
Để tìm hiểu các yếu tố bên trong và bên ngoài hệ thống ngân hàng ảnh hưởng như thế nào đến rủi ro thanh khoản, tác giả đã tiếp cận 3 cách ước lượng mô hình tổng quát gồm: Mô hình kết hợp tất cả các quan sát (Pooled); mô hình tác động cố định (FEM); và mô hình tác động ngẫu nhiên (REM). Từ đó, dựa vào các phân
tích hệ số R2, thống kê Durbin-Watson, kiểm định Hausman, phân tích tương quan giữa thành phần sai số chuyên biệt chéo hay cá nhân i) và các biến độc lập để lựa chọn mô hình phù hợp. Kết quả ước lượng cho thấy biến tổng tài sản có tác động phi tuyến tính đến rủi ro thanh khoản. Tuy nhiên, khi tổng tài sản tăng đến một mức nào đó sẽ làm tăng rủi ro thanh khoản. Một kết quả đáng quan tâm khác đó là một sự tăng cao hơn về tốc độ tăng trưởng kinh tế năm hiện tại có tác động làm giảm rủi ro thanh khoản ngân hàng trong năm đó, nhưng nó sẽ làm tăng rủi ro thanh khoản của năm sau. Bên cạnh đó, chỉ số lạm phát của năm nay không có ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản trong năm đó nhưng có ảnh hưởng làm giảm rủi ro thanh khoản của năm sau đó.
Vũ Thị Hồng (2012) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng mẫu của 37 NHTM trong giai đoạn 6 năm từ năm 2006-2011. Nghiên cứu đưa ra biến phụ thuộc với 4 cách đo lường như sau:
L1 = Tài sản thanh khoản/Tổng tài sản
L2 = Tài sản thanh khoản/(Tiền gửi + Vốn huy động ngắn hạn) L3 = Khoản cho vay/Tổng tài sản
L4= Khoản cho vay/(Tiền gửi+Nguồn vốn ngắn hạn)
Nghiên cứu đưa ra các biến phụ thuộc bao gồm: (1) Tỷ lệ vốn chủ sở hữu;
(2) Tỷ lệ nợ xấu; (3) Tỷ lệ lợi nhuận; (4) Tỷ lệ cho vay trên huy động; (5) Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng; (6) Quy mô ngân hàng. Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng. Qua phân tích thống kê, tương quan và hồi quy dữ liệu bảng không cân xứng với hiệu ứng Fixed Effect. Kết quả cho thấy các yếu tố tỷ lệ vốn chủ sở hữu, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ lợi nhuận có mối tương quan thuận với rủi ro thanh khoản. Yếu tố tỷ lệ cho vay trên huy động có mối tương quan nghịch với rủi ro thanh khoản. Các biến tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng, quy mô ngân hàng không ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản.
Bảng 2.1 Tóm tắt các nghiên cứu trước về các yếu tố tác động đến khả năng và rủi ro thanh khoản của các ngân hàng
Năm | Số mẫu | Biến độc lập | Kết quả | |
Nghiên cứu nước ngoài | ||||
Nghiên cứu quản lý rủi ro thanh khoản tại ngân hàng thông thường và hồi giáo/Muhammad Farhan Akhtar | 2011 | 48 | -Quy mô ngân hàng (SIZE) -Vốn lưu động thuần (NWC) -Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) -Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) -Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) | -Các biến SIZE, NWC có tương quan dương nhưng không đáng kể. -Biến CAR, ROA có tương quan dương và đáng kể ở mức 10%. -NH thông thường quản lý rủi ro thanh khoản tốt hơn NH Hồi giáo. |
Nghiên cứu các yếu tố quyết định đến khả năng thanh khoản của các NHTM ở CH Czech/Pavla Vodova | 2011 | 162 | -Tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản (CAP) -Tỷ lệ nợ xấu (NPL) -Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) -Quy mô ngân hàng (SIZE) -Tăng trưởng kinh tế (GDP) -Lạm phát (INF) -Chính sách tiền tệ (MIR) -Lãi suất cho vay (IRL) | -NH tăng khả năng thanh khoản với biến CAP, IRL, NPL. -Biến INF, GDP có tác động tiêu cực đến khả năng thanh khoản. -Biến MIR không có ý nghĩa thống kê. |
Nghiên cứu các yếu | 2012 | 500 | -Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA). | -Kết quả cho thấy các ngân hàng |
Có thể bạn quan tâm!
- Phân tích các nhân tố tác động đến khả năng thanh khoản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2
- Mối Quan Hệ Giữa Rủi Ro Thanh Khoản Và Các Rủi Ro Khác
- Mô Hình Các Yếu Tố Tác Động Đến Rủi Ro Thanh Khoản
- Khảo Sát Các Cặp Tương Quan Giữa Các Biến Độc Lập
- Tỷ Lệ Vốn Chủ Sở Hữu Trên Tổng Tài Sản Qua Các Năm
- Một Số Kiểm Định Dành Cho Mô Hình Fe Kiểm Định Đa Cộng Tuyến
Xem toàn bộ 81 trang tài liệu này.
25
-Tỷ lệ dự trữ thanh khoản (LRA). -Quy mô ngân hàng (SIZE). -Ảnh hưởng của nhà đầu tư bên ngoài. -Tăng trưởng kinh tế (GDP) -Lạm phát (INF) | mong muốn nắm giữ phòng ngừa thanh khoản, và do sự hiện diện của những trở ngại về cơ cấu tín dụng dẫn đến ngân hàng nắm giữ thanh khoản cao hơn. | |||
Nghiên cứu các yếu tố quyết định của rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Ghana/Samuel Siaw | 2013 | 220 | -Quy mô ngân hàng (SIZE). -Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA). -Tỷ lệ dự trữ thanh khoản (LRA). -Vốn chủ sở hữu (OWN) -Lạm phát (INF) | -Kết quả cho thấy SIZE, INF có mối quan hệ tích cực và có ý nghĩa thống kê với rủi ro thanh khoản. -LRA có mối quan hệ tiêu cực với rủi ro thanh khoản. |
Nghiên cứu các yếu tố quyết định đến thanh khoản của các NHTM Malaysia/ Lee Lar Choon và cộng sự | 2013 | 150 | -Tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản (CAP). -Quy mô ngân hàng (SIZE). -Tỷ lệ nợ xấu (NPL) -Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) -Tốc độ tăng trưởng (GDP) -Lãi suất liên ngân hàng -Khủng hoảng tài chính | -Kết quả cho thấy CAP, SIZE, NPL, GDP, ROE, khủng hoảng tài chính có ảnh hưởng đáng kế đến thanh khoản. -Tỷ giá liên ngân hàng không ảnh hưởng đáng kề đến thanh khoản. |
Nghiên cứu các yếu tố quyết định đến | 2013 | 240 | -Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR). -Lãi suất cho vay. | -Kết quả cho thấy CAR, lãi suất cho vay ảnh hưởng tích cực đến khả |
26
-Quy mô ngân hàng (SIZE). -Lợi nhuận biên. -Chính sách tiền tệ. -Lãi suất liên ngân hàng | năng thanh khoản. -Các yếu tố SIZE, lợi nhuận biên, chính sách tiền tệ, lãi suất liên ngân hàng ảnh hưởn tiêu cực đến thanh khoản. | |||
Nghiên cứu các yếu tố quyết định đến rủi ro thanh khoản của các NHTM ở Bosnia/Ganic Mehmad | 2014 | 187 | -Tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản (CAP). -Tỷ lệ nợ xấu (NPL) -Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE). -Dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ (LLR). -Tốc độ tăng trưởng (GDP). -Lạm phát (INF) -Chính sách tiền tệ (IRM) | -Ở mô hình LR1 (tài sản thanh khoản trên tổng tài sản) các biến có ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản là NPL, ROE, LLR. -Ở mô hình LR2 (tài sản thanh khoản trên tổng tiền gửi và nguồn vốn ngắn hạn) các biến có ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản là CAP, LLR. |
Nghiên cứu các yếu tố tác động đến rủi ro thanh khoản của các NHTM trong Liên minh Châu Âu/ | 2015 | 476 | -Tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản (ETA). -Lợi nhuận ròng trên tài sản (NIM). -Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) -Lãi suất liên ngân hàng. -Quy mô ngân hàng (SIZE). | -Các yếu tố bên trong ngân hàng có ảnh hưởng đến mức độ rủi ro thanh khoản bất kể dưới hình thức đo lường rủi ro thanh khoản nào. -Các yếu tố kinh tế vĩ mô ành hưởng |
27