Dự Báo Xu Thế Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế Và Tác Động Đến Môi Trường Trong Thời Gian Tới

Việc quán triệt và đưa vào chiến lược bảo vệ môi trường đến năm 2010 và thực hiện luận điểm này đồng thời cũng là sự tận dụng thời cơ và lợi thế của những nước đi sau tiến hành công nghiệp hoá có thể tiết kiệm được cái giá phải trả cho môi trường, tránh được những tổn thất về môi trường, phục vụ cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững.

Sử dụng bền vững và tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất

nước

Tài nguyên thiên nhiên không phải là kho của cải vô tận, mà có giới hạn

và cũng như mọi thứ tài sản khác, nó cũng có giá trị và được định giá. Sự giới hạn của tài nguyên thiên nhiên và tốc độ khai thác tự nhiên ngày càng tăng là những nguyên nhân chủ yếu đe doạ sự bền vững đối với quá trình phát triển của đất nước.

Hiện nay tình trạng suy thoái môi trường đáng báo động ở tất cả các thành phần môi trường ở nước ta, đặt ra yêu cầu ngay từ bây giờ cần phải sử dụng một cách bền vững và tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Yêu cầu này được xem trọng vì nhu cầu phát triển sản xuất, và đi liền với nó là nhu cầu về sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên trong những thập kỷ tới ở nước ta sẽ tăng lên với tốc độ rất cao.

Huy động và phát huy sự tham gia của các thành phần kinh tế và tầng lớp dân cư, tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường sinh thái

Con người là một bộ phận hữu cơ của môi trường, gắn bó một cách mật thiết và trực tiếp với tất cả các thành phần của môi trường. Do vậy, đối với bảo vệ thiên nhiên mọi người đều có trách nhiệm và quyền lợi bình đẳng như nhau. Nhà nước đóng một vai trò to lớn trong việc bảo vệ môi trường, có những trách nhiệm không thể thay thế được, nhưng chỉ có Nhà nước, một mình Nhà nước thì không thể bảo vệ được môi trường. Tuy nhiên đã có thời gian điều này bị xem nhẹ. Nhiều nhà quản lý của Việt Nam xem việc bảo vệ môi trường là việc của họ chứ không phải là việc và trách nhiệm của nhân dân, vì vậy các chương trình mang tính cộng đồng ít được ưu tiên trong phân bổ ngân sách mà chủ yếu dựa vào các nguồn viện trợ từ bên ngoài.

Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong công tác bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường

Vai trò tất yếu cần được tăng cường của Nhà nước trong quá trình vận động phát triển của nền kinh tế thị trường do chính những những khuyết tật của mô hình này quyết định. Vì lý do chạy theo lợi nhuận tối đa mà các doanh nghiệp

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.

- tác nhân chủ yêu gây ô nhiễm môi trường và phá hoại môi trường - không chú ý hoặc tìm cách né tránh những chi phí cho bảo vệ môi trường. Phá hoại môi trường sinh thái, gây ô nhiễm môi trường là một trong những khuyết tật mà lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế thị trường đã tổng kết. Các lý thuyết hiện đại về kinh tế thị trường đều cho rằng chính những thất bại trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội và môi trường là lý do chủ yếu của sự cần thiết tăng cường quản lý Nhà nước để điều chỉnh và điều tiết các hoạt động trong nền kinh tế và trong xã hội.

Chính sách môi trường là chính sách vĩ mô, công cụ điều tiết của Nhà

Môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam - 9

nước

Để phát triển bền vững đất nước thì nếu chỉ có các chính sách vĩ mô thôi

không đủ. Một nhiệm vụ lớn được đặt ra là tìm sự hoà nhập giữa chính sách của các công ty, các tổ chức, đoàn thể, … với chính sách vĩ mô, theo định hướng của chính sách vĩ mô. Sự hoà nhập là điều cần phải đạt được, tuy nhiên không phải lúc nào cũng dễ dàng. Tinh thần của kiểu phát triển kinh tế - xã hội: hy sinh cái này để đạt được cái kia, mà cụ thể ở đây là đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên cao nhất và xem nhẹ sự ảnh hưởng tiêu cực của nó tới môi trường, hiện nay vẫn đang còn cạnh tranh khốc liệt với tinh thần phát triển bền vững.

Chức năng quan trọng của chính sách bảo vệ môi trường là tạo dựng những hành lang hướng các tác nhân (tổ chức, cá nhân) sử dụng môi trường hành động có cân nhắc, lựa chọn sao cho vừa đạt được mục đích sử dụng của mình, vừa đạt được mục đích bảo vệ môi trường phục vụ phát triển bền vững. Nền kinh tế hỗn hợp là nền kinh tế được vận hành với sự dẫn dắt và điều tiết của “bàn tay hữu hình” của Nhà nước và “bàn tay vô hình” của thị trường.

Chính sách bảo vệ môi trường một mặt phải thể hiện ý chí của xã hội mà Nhà nước là đại diện, mặt khác cũng phải tuân thủ những quy luật vận động của thị trường.

Về góc độ thị trường, thực chất động cơ ẩn giấu bên trong mọi hoạt động khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên là tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Động cơ này một mặt thúc đẩy người sản xuất và người tiêu dùng tối ưu hoá việc sản xuất và tiêu dùng sản phẩm, có nghĩa là tối ưu hoá việc sử dụng nguyên vật liệu, năng

lượng cấu thành nên sản phẩm, nhưng mặt khác cũng tìm cách khai thác tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên và trốn tránh các chi phí cho việc bảo vệ nguồn tài nguyên ấy. Vì vậy chính sách bảo vệ môi trường phải bao hàm cả hai khía cạnh: khuyến khích và phòng ngừa.

Tuy vậy, chính trong yêu cầu bao hàm hai khía cạnh ấy mà chính sách bảo vệ môi trường cũng ẩn giấu sự mâu thuẫn mà không phải bao giờ cũng xử lý, giải quyết được hợp lý, tốt đẹp. Đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu cấp bách về việc duy trì một mức tăng trưởng cao, trong thời gian vài ba thập kỷ đối với một nền sản xuất về cơ bản vẫn còn phải dựa trên cơ sở khai thác tự nhiên, và nhu cầu cũng không kém cấp bách về bảo vệ môi trường sinh thái đang bị suy thoái ngày càng tương ứng với nhịp độ phát triển của sản xuất.

Các nguyên tắc thực hiện trong việc xây dựng các chính sách bảo vệ môi trường:

Nguyên tắc 1: Người gây ô nhiễm phải chịu chi phí

Nguyên tắc này đã được quy định trong Luật Bảo vệ Môi trường (điều 7 và điều 10), đòi hỏi những người gây ô nhiễm phải chi trả những chi phí cho việc khống chế ô nhiễm, làm sạch, hoặc phải bồi thường thiệt hại cho người phải chịu ô nhiễm. Về thực chất, đây là sự kết hợp biện pháp quản lý với biện pháp kinh tế nhằm giải quyết những mâu thuẫn thường xảy ra giữa người gây ra ô nhiễm và người phải chịu ô nhiễm.

Nguyên tắc 2: người sử dụng tài nguyên phải trả tiền

Nguyên tắc này dựa trên cơ sở yêu cầu lợi ích thu được từ sử dụng tài nguyên phải phù hợp với chi phí cần thiết cho việc sử dụng ấy. Chi phí này bao gồm các chi phí cần thiết không chỉ cho việc sử dụng trực tiếp tài nguyên mà còn cả các chi phí có liên quan tới khai thác, chế biến và sử dụng tài nguyên cùng chi phí cho việc sử dụng dự kiến trong tương lai. Người sử dụng phải chịu ba loại chi phí sau:

a) Loại chi phí sản xuất trực tiếp (nguyên vật liệu, năng lượng sử dụng trực tiếp cho quá trình sản xuất của người sử dụng).

b) Loại chi phí kiểm soát thiệt hại (chi phí cho việc phòng tránh và kiểm soát ô nhiễm)

c) Loại chi phí cho người sử dụng tương lai (trách nhiệm của người tiêu dùng hiện tại đóng góp cho người sử dụng tương lai).

Nguyên tắc 3: Phòng ngừa và ngăn chặn

Nguyên tắc này chủ trương ngăn ngừa và làm giảm nhẹ những căng thẳng về môi trường trước khi xuất hiện những biểu hiện rõ ràng về thiệt hại môi trường

Nguyên tắc 4: Huy động sự tham gia của cộng đồng

Nguyên tắc này xuất phát từ chủ trương của Đảng và Nhà nước ta “Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân” và muốn phát triển lâu bền phải làm cho xã hội được giáo dục và thông tin đầy đủ để tham gia có hiệu quả bằng việc thay đổi nhận thức trách nhiệm và hành động với lòng nhiệt tình trong giải quyết các vấn đề môi trường và phát triển”. Nhân tố cơ bản cho sự phát triển bền vững ở Việt Nam phải là một hệ thống tổ chức xã hội phát huy hợp tác, tương trợ trong các cộng đồng, nhằm huy động một cách có hiệu quả nguồn lực để giải quyết những vấn đề có lợi ích về thiên nhiên và môi trường.

Nguyên tắc 5: Khuyến khích hỗ trợ

Sự khuyến khích, hỗ trợ ở đây được hiểu chủ yếu là từ phía Nhà nước. Sự khuyến khích, hỗ trợ này trong giới hạn nhất định có thể đồng nghĩa với sự bao cấp của ngân sách Nhà nước chi cho mục tiêu bảo vệ môi trường, mang tính chất chi tiêu công cộng như các khoản chi cho an ninh, quốc phòng, văn hoá - xã hội. Nghĩa là khoản chi cho nhu cầu công cộng mà cá nhân hay từng nhóm, cộng đồng người trong xã hội vì những lý do khác nhau không thể hoặc không muốn quan tâm. Trách nhiệm của Nhà nước trong những trường hợp này hoặc là đáp ứng nhu cầu chi hoặc là hỗ trợ ban đầu nhằm khuyến khích sự tham gia đóng góp của các cá nhân, các cộng đồng cho mục tiêu bảo vệ môi trường.

Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 2001 - 2010 gắn với các ngành kinh tế được lựa chọn phù hợp với cơ cấu kinh tế trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội bao gồm các lĩnh vực: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn; công nghiệp, kết cấu hạ tầng và dịch vụ và được lồng ghép hài hoá theo hướng cùng phát triển.

Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn được xác định là một trọng điểm ưu tiên trong giai đoạn này. Sự phát triển của lĩnh vực này sẽ làm thay đổi cơ cấu của nền kinh tế và sẽ có tác dụng mạnh mẽ đến môi trường theo hướng tích cực. Chiến lược bảo vệ môi trường và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được lồng ghép theo những nội dung:

Quy hoạch môi trường gắn với quy hoạch ổn định các vùng sản xuất lương thực, bảo đảm an ninh lương thực đồng thời bảo đảm gìn giữ môi trường. Đổi mới cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp, bảo vệ, khôi phục và phát triển tài nguyên rừng theo hướng là những tác nhân tích cực đối với hệ sinh thái. Xây dựng nông thôn mới gắn liền với chiến lược vệ sinh môi trường nông thôn nhằm nâng cao chất lượng sống và đổi mới phương thức sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp theo hướng tiên tiến hiện đại, giảm thiểu việc gây ô nhiễm môi trường.

Công nghiệp được phát triển theo hướng đa dạng hoá sản phẩm với kỹ thuật sản xuất hiện đại sẽ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng. Để giảm thiểu sẽ tác động môi trường các ngành này cần áp dụng các công nghệ sản xuất sạch, thân thiện với môi trường, sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt chú trọng khâu xử lý rác thải.

Kết cấu hạ tầng là một lĩnh vực cũng có nhiều tác động đến môi trường. Mạng lưới giao thông đường thuỷ, đường bộ không hợp lý là tác nhân phá huỷ hệ sinh thái hai bên đường, gây ô nhiễm môi trường nước mặt trên sông, biển và gây ô nhiễm tiếng ồn trong khu dân cư, đô thị.

Việt Nam hiện nay đã xây dựng định hướng chiến lược phát triển bền vững và là Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam, với những lĩnh vực hoạt động cần ưu tiên sau:

Về kinh tế

- Duy trì tăng trưởng nhanh và ổn định trên cơ sở nâng cao không ngừng tính hiệu quả, hàm lượng khoa học – công nghệ và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và cải thiện môi trường.

- Thay đổi mô hình và công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dùng theo hướng sạch hơn và thân thiện với môi trường, dựa trên cơ sở sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên không tái tạo lại được, giảm tối đa chất thải độc hại và khó phân huỷ, duy trì lối sống của cá nhân và xã hội hài hoà và gần gũi với thiên nhiên.

- Thực hiện quá trình “công nghiệp hoá sạch”, nghĩa là ngay từ ban đầu phải quy hoạch sự phát triển công nghiệp với cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi trường; tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm công nghiệp, xây dựng nền “công nghiệp xanh”.

- Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững. Trong khi phát triển sản xuất ngày càng nhiều hàng hoá theo yêu cầu của thị trường, phải bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, bảo tồn và phát triển được các nguồn tài nguyên: đất, nước, không khí, rừng và đa dạng sinh học.

Về lĩnh vực xã hội

- Tập trung nỗ lực để xoá đói, giảm nghèo, tạo thêm việc làm; tạo lập cơ hội bình đẳng để mọi người được tham gia các hoạt động xã hội, văn hoá, chính trị, phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.

- Tiếp tục hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số, giảm bớt sức ép của sự gia tăng dân số đối với các lĩnh vực tạo việc làm, y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân, giáo dục và đào tạo nghề nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái.

- Định hướng quá trình đô thị hoá và di dân nhằm phát triển bền vững các đô thị; phân bố hợp lý dân cư và lực lượng lao động theo vùng, bảo đảm sự phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường bền vững ở các địa phương.

- Nâng cao chất lượng giáo dục để nâng cao dân trí, trình độ nghề nghiệp thích hợp với yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước.

- Phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân, cải thiện các điều kiện lao động và vệ sinh môi trường sống.

Về lĩnh vực tài nguyên môi trường

- Chống thoái hoá, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất.

- Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước.

- Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản.

- Bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển.

- Bảo vệ và phát triển rừng.

- Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp.

- Quản lý có hiệu quả chất thải rắn và chất thải nguy hại.

- Bảo tồn đa dạng sinh học.

- Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu, góp phần phòng, chống thiên tai.

Chiến lược bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế - xã hội là vấn đề vừa có tính thống nhất, vừa có tính đối lập, và là những trụ cột để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước và cần được sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều cấp và là trách nhiệm của toàn dân.

3.1.2. DỰ BÁO XU THẾ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN MÔI TRƯỜNG TRONG THỜI GIAN TỚI

Theo dự báo, Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục là một trong những nước có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất trên thế giới, với tốc độ tăng trưởng được dự báo là 7% trong thập kỷ tới. Sự tăng trưởng nhanh chóng đó đã giúp cho hơn 20 triệu người dân Việt Nam thoát được cảnh nghèo đói trong vòng chưa đầy một thập kỷ vừa qua. Việt Nam cũng sẽ ngày càng mở cửa hội nhập với nền kinh tế quốc tế. Tuy nhiên sự tăng trưởng nhanh chóng và mạnh mẽ này cũng đồng thời tạo nên những thách thức không lường trước được về mặt môi trường, như gây ra các tác động nghiêm trọng đối với sức khoẻ và môi trường, đặc biệt là ở các vùng công nghiệp và đô thị mới.

Chất thải hiện đang là vấn đề nổi cộm của Việt Nam. Mỗi năm, có khoảng hơn 15 triệu tấn chất thải phát sinh trong cả nước và theo dự báo thì tổng lượng chất thải phát sinh trong nước vẫn tiếp tục tăng lên nhanh chóng trong thập kỷ tới đây. Trong tổng số lượng rác thải, chất thải sinh hoạt từ các hộ gia đình, nhà hàng, các khu chợ kinh doanh, chiếm tới 80% tổng lượng phát thải trong cả nước. Lượng còn lại phát sinh từ các cơ sở công nghiệp. Chất thải nguy hại công nghiệp và các nguồn chất thải y tế nguy hại tuy phát sinh với số lượng ít hơn, nhưng là nguồn thải đáng lưu ý vì chúng có nguy cơ gây hại cho sức khoẻ và môi trường rất cao nếu không được xử lý một cách thích hợp.

Các đô thị lớn của Việt Nam là nguồn phát sinh chất thải sinh hoạt chính. Mặc dù số dân cư chỉ chiếm 24% dân số của cả nước, nhưng lại phát sinh đến hơn 6 triệu tấn chất thải mỗi năm (tương đương với 50% tổng lượng chất thải sinh hoạt của cả nước) do có lối sống khá giả hơn, có nhiều hoạt động thương mại hơn và đô thị hoá cũng diễn ra ở cường độ cao hơn. Ước tính mỗi người dân ở đô thị Việt Nam trung bình phát thải khoảng 2/3 kg chất thải mỗi ngày, gấp đôi lượng phát thải trung bình của người dân nông thôn và phần lớn chất thải đều là chất thải hữu cơ dễ phân huỷ chiếm. Chất thải ở các vùng đô thị thường có tỷ lệ thành phần nguy hại lớn hơn như các loại pin, các loại dung môi sử dụng trong gia đình và các loại chất thải không phân huỷ như nhựa, kim loại và thuỷ tinh.

Chất thải công nghiệp chủ yếu tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu đô thị phát triển. Lượng phát thải công nghiệp ước tính chỉ chiếm 20 - 30% tổng lượng phát thải sinh hoạt, tuỳ theo quy mô và cơ cấu công nghiệp của từng vùng, mỗi năm khoảng 2,6 triệu tấn. Chất thải công nghiệp tập trung chủ yếu ở miền Nam. Gần một nửa lượng phát thải công nghiệp phát sinh ở vùng Đông Nam Bộ, trong đó thành phố Hồ Chí Minh phát sinh 31% tổng lượng chất thải của cả nước. Tiếp theo đó là vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ.

Chất thải công nghiệp phát sinh từ các làng nghề chủ yếu phát sinh ở miền Bắc. Các làng nghề là một yếu tố đặc trưng của Việt Nam. Đây là các làng ở vùng nông thôn, và tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu cho các làng nghề, đặc biệt các nghề thủ công như gốm sứ, dệt may, tái chế chất thải, chế biến thực phẩm và chế tác các đồ thủ công mỹ nghệ. Có khoảng 1450 làng nghề phân bố trong 56 tỉnh thành cả nước.

Chất thải nguy hại là mối hiểm hoạ ngày càng lớn. Nguồn phát sinh chất thải nguy hại lớn nhất là các cơ sở công nghiệp (với 130.000 tấn/năm) và các bệnh viện (21.000 tấn/năm). Ngoài ra nông nghiệp cũng là nguồn phát sinh chất thải nguy hại, mỗi năm phát sinh khoảng 8.600 tấn các loại thuốc trừ sâu, bao bì và thùng chứa thuốc trừ sâu và khoảng 37.000 tấn tồn lưu các loại hoá chất nông nghiệp bị thu giữ và thuốc trừ sâu quá hạn sử dụng. Lượng chất thải nguy hại phát sinh ở các vùng khác nhau cũng khát biệt rõ rệt.

Theo ước tính lượng phát sinh chất thải sẽ tăng lên đáng kể. Theo dự báo với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay, đến năm 2010 sẽ có thêm khoảng 10 triệu dân cư dân sinh sống ở các vùng đô thị; tiêu dùng sẽ tăng lên và sản xuất cũng sẽ tăng mạnh với việc phát triển thêm nhiều ngành công nghiệp có tiềm năng phát sinh nhiều chất thải nguy hại; và các cơ sở y tế sẽ tiếp tục được hiện đại hoá. Những biến động này sẽ làm tăng lượng phát sinh chất thải sinh hoạt thêm 60%; lượng phát sinh chất thải công nghiệp sẽ tăng cỡ 50% và lượng phát sinh chất thải nguy hại sẽ tăng hơn 3 lần, mà chủ yếu là từ các nguồn công nghiệp. Nếu tính đến chi phí cao cho các hoạt động thu gom và tiêu huỷ chất thải một cách an toàn thì việc triển khai các sáng kiến nhằm giảm thiểu phát sinh chất thải như các chương trình nâng cao nhận thức cộng đồng, sản xuất sạch hơn và áp dụng các biện pháp khuyến khích về kinh tế dựa trên nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền”, chúng ta sẽ tiết kiệm đáng kể nguồn kinh phí. Ví dụ như ước tính mỗi năm sẽ tiết kiệm được 200 tỷ đồng chi cho hoạt động xử lý chất thải sinh

Xem tất cả 103 trang.

Ngày đăng: 26/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí