Một Số Giải Pháp Bảo Vệ Môi Trường Trong Quá Trình Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế Của Việt Nam

chẳng những môi trường sống của chúng ta sẽ ngày càng xuống cấp, mà việc mở rộng xuất khẩu sang những thị trường khó tính, có tiêu chuẩn bảo vệ môi trường như châu Âu, Nhật Bản, Bắc Mỹ sẽ gặp khó khăn. Các chính sách này cũng dần được thể hoá thành pháp luật.

Hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung và hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường nói riêng đã có những bước chuyển biến cơ bản. Vấn đề này được đánh dấu bằng sự ra đời của Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 và hiện nay đang được sửa đổi cho phù hợp hơn với các điều kiện phát triển hiện nay của chúng ta. Tại Điều 1 của Luật bảo vệ môi trường Việt Nam đã định nghĩa: “Bảo vệ môi trường là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn và khắc phục hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên”. Vấn đề bảo vệ môi trường không những được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường, mà còn được quy định trong các văn bản pháp luật khác điều chỉnh từng hoạt động của con người khi tác động vào thiên nhiên, tạo nên sự ảnh hưởng nhất định vào môi trường sống.

Ngoài văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp việc bảo vệ môi trường là Luật Bảo vệ môi trường, Nhà nước ta cũng đã ban hành hành nhiều văn bản luật trong các chuyên ngành khác, như:

- Các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường.

- Các quy định về đánh giá tác động môi trường đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh.

- Các văn bản pháp luật điều chỉnh một số yếu tố của môi trường như: bảo vệ môi trường nước, bảo vệ môi trường đất, bảo vệ động vật, thực vật.

- Các văn bản pháp luật khác quy định về nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh phải bảo vệ môi trường như: bảo vệ môi trường trong quá trình nuôi trồng, khai thác và chế biến thuỷ sản; trong hoạt động dầu khí; bảo vệ và phát triển rừng; bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng sản; bảo vệ môi trường trong quá trình tham gia giao thông, xây dựng, tham gia sản xuất, kinh doanh hay lĩnh vực y tế, v.v…

Luật Bảo vệ môi trường quy định việc bảo vệ môi trường nói chung (với tư cách là tổng thể các thành tố mà không phụ thuộc vào thành tố) đó là loại tài

nguyên thiên nhiên nào, do ai sử dụng và mục đích sử dụng từng thành tố của môi trường. Vì vậy Luật Bảo vệ môi trường quy định các biện pháp và cách thức chung để thực hiện việc bảo vệ môi trường, các biện pháp phòng ngừa và khắc phục ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường và sự cố môi trường.

Trong khi đó các luật chuyên ngành khác như Luật Tài nguyên nước (1998), Luật Dầu khí (1993, sửa đổi năm 2000), Luật Bảo vệ và phát triển rừng (1991), Pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản (1989), v.v… quy định về chế độ pháp lý khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời các văn bản pháp luật này cũng quy định bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên với tư cách là bảo vệ các giá trị sinh thái (bảo vệ môi trường). Các quy định về các hoạt động sản xuất kinh doanh, ngoài việc đạt hiệu quả hoạt động trong sản xuất kinh doanh còn phải có quy định nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Như vậy, giá trị kinh tế khi sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên hay khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh được đảm bảo, nhưng không vì thế mà có thể làm giảm sút giá trị môi sinh. Khi đề cập đến khía cạnh bảo vệ môi trường, các văn bản pháp luật chuyên ngành thường dẫn chiếu áp dụng các biện pháp phòng, chống, khắc phục ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, gây sự cố môi trường theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường, đánh giá tác động môi trường trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.

Như vậy nhìn chung các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường đã quy định khá đầy đủ từ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường, đến quyền và nghĩa vụ của cơ bản của mỗi cá nhân, tổ chức trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệ môi trường. Hệ thống các tiêu chuẩn môi trường cũng đã được ban hành để làm cơ sở pháp lý cho việc xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể trong việc bảo vệ môi trường. Các quy định pháp luật đã chú trọng tới khía cạnh toàn cầu của môi trường, bảo vệ môi trường là sự nghiệp toàn dân, chứ không phải chỉ là trách nhiệm riêng của Nhà nước.

Luật Thương mại (ban hành năm 1997) và Luật Bảo vệ môi trường là những quy phạm pháp luật có giá trị hiệu lực cao, điều chỉnh tương đối toàn diện các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và thương mại ở Việt nam. Tuy nhiên cho đến hiện nay mối quan hệ giữa Luật môi trường và pháp luật thương mại ở Việt Nam còn khá mờ nhạt. Trên thực tế, việc sử dụng môi trường sống chưa trở thành một chi phí sản xuất hay tiêu dùng. Người kinh doanh chưa có nhu cầu sử dụng môi trường như một biện pháp tăng tính cạnh tranh cho sản

Môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam - 8

phẩm của mình. Việc đánh giá tác động môi trường, đáp ứng tiêu chuẩn bảo vệ môi sinh và sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực này được xem như một điều kiện cho khởi sự và điều kiện kinh doanh. Tuy nhiên chúng ta hiện vẫn có ý thức kém về trách nhiệm giảm nhẹ huỷ hoại môi sinh. Chẳng hạn như việc khai thác cát ở sông Hồng hoặc nước ngầm của Hà Nội vẫn chưa bị đánh thuế tài nguyên, thì khi đó việc khai thác vẫn diễn ra tự do. Người kinh doanh cũng chưa có nhu cầu đầu tư cho công nghệ thân thiện môi trường như là một biện pháp tăng cường tính cạnh tranh cho sản phẩm của mình.

Quá trình phát triển kinh tế xã hội và hội nhập nền kinh tế thế giới hiện gây nhiều tác động đến môi trường sinh thái, làm phát sinh mâu thuẫn với bảo vệ môi trường. Vì thế mối quan hệ giữa pháp luật môi trường và pháp luật thương mại ngày càng trở nên cần thiết và phải gắn bó hữu cơ trong mục tiêu phát triển bền vững.

2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế

Tại các nước phát triển, việc mở cửa hội nhập với kinh tế thế giới có thể gây ra những ảnh hưởng, tác động nhất định đến sự cân bằng sinh thái. Tuy nhiên nó không phải là những nguyên nhân trực tiếp gây nên tình trạng huỷ hoại môi trường tại các nước này. Nhưng nó lại chính là nguyên nhân trực tiếp gây nên tình trạng phá huỷ môi trường ở các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước nghèo. Bởi lẽ các nước phát triển với chính sách xuất khẩu ồ ạt công nghệ, hàng tiêu dùng lạc hậu, cũ, tạo ra nhiều chất thải làm ô nhiễm môi trường. Chính sách tăng cường nhập khẩu nguồn nguyên liệu thô từ các nước nghèo, chậm phát triển đã đặt các nước nghèo, các nước đang phát triển trước nguy cơ môi trường bị huỷ hoại nghiêm trọng nếu không có chính sách, biện pháp thích hợp trong việc thực hiện quá trình tự do hoá thương mại.

Như một tất yếu khách quan mang tính quy luật, các nước nghèo, chậm phát triển khi bắt đầu bước vào giai đoạn tăng trưởng kinh tế do thiếu kinh nghiệm nên khi mở cửa hội nhập với nền kinh tế quốc tế cũng dễ dẫn đến việc phá huỷ môi trường. Tuy nhiên sự huỷ hoại của môi trường đến mức nào còn tuỳ thuộc vào vai trò của Chính phủ trong việc hoạch định và tổ chức thực hiện hệ thống các chính sách phát triển kinh tế, tự do thương mại và bảo vệ môi trường.

Việt Nam là một nước đang phát triển và cũng không nằm ngoài quy luật trên do một số những nguyên nhân chủ yếu sau:

2.2.2.1 Nguyên nhân khách quan

Khi chúng ta bắt đầu chuyển đổi nền kinh tế và thực hiện tự do hoá thương mại, từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới, mặc dù có tốc độ tăng trưởng nhanh trên thế giới nhưng vẫn chưa thoát khỏi hoàn toàn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Điều này có nghĩa rằng để phát triển kinh tế thì nguồn vốn chủ yếu để tạo cơ hội chỉ có thể là nguồn đất đai, khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên sẵn có. Vì vậy cơ cấu sản xuất và xuất khẩu của chúng ta hiện nay vẫn mang nặng tính chất thâm dụng tài nguyên. Hơn nữa, các công nghệ lạc hậu của chúng ta tất yếu phát sinh nhiều chất thải công nghiệp nguy hại không được xử lý, đã và đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Hơn nữa khi chúng ta chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong điều kiện Luật Thương mại chưa được ban hành (năm 1998 mới ban hành), hệ thống luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến hoạt động thương mại chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, thường xuyên phải thay đổi, bổ sung, không đảm bảo tính kịp thời, ổn định, nhất quán của hệ thống văn bản pháp luật đối với việc quản lý các hoạt động kinh tế. Luật Bảo vệ môi trường và Luật Khoáng sản mới được xây dựng và ban hành vào 1993, 1995. Đặc biệt là việc tổ chức thực hiện Luật và các văn bản quy phạm pháp luật kém hiệu quả, việc xử lý vi phạm pháp luật chưa nghiêm minh. Ý thức tự giác, trình độ hiểu biết của người dân trong việc thực hiện pháp luật và trong việc bảo vệ môi trường còn thấp kém. Đó cũng là kết quả tất yếu của giai đoạn đầu khi chúng ta vẫn còn chưa có nhiều kinh nghiệm.

Chúng ta cũng đang đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện được điều này cần phải có một nguồn vốn lớn và dồi dào để xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ sản xuất. Do nội lực của nền kinh tế còn yếu, nên khi thực hiện góp vốn liên doanh với nước ngoài, chúng ta vẫn chủ yếu vẫn phải dựa vào những lợi thế về đất đai, lao động và nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có. Nếu không được quản lý chặt chẽ sẽ rất dễ gây ra tình trạng suy thoái môi trường, và điều này hiện đang diễn ra mạnh mẽ.

Hơn nữa làn sóng dịch chuyển công nghệ sản xuất công nghệ lạc hậu, hàng tiêu dùng công nghiệp cũ của các nước phát triển sang các nước đang phát triển trong điều kiện mở cửa nền kinh tế hiện nay đang ngày một phổ biến và là nguyên nhân gây tác động xấu đến môi trường của chúng ta.

2.2.2.2 Nguyên nhân chủ quan

Quá trình mở cửa nền kinh tế để hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta sẽ còn tiếp tục mở rộng và phát triển một cách mạnh mẽ. Tuy nhiên cho tới nay chúng ta vẫn chưa có được một chiến lược và từ đó có kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn nhằm xác định nội dung, mức độ, giải pháp, lộ trình đối với việc mở cửa của nền kinh tế, thực hiện tự do hoá thương mại để làm cho quá trình này vừa đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường vừa có tác dụng bảo hộ nền sản xuất nội địa và nhất là để ngăn ngừa một cách hiệu quả đối với các tác động xấu đến môi trường, đe doạ sự cân bằng sinh thái.

Chúng ta hiện chưa có một cơ chế thích hợp nhằm phối hợp chặt chẽ các hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại với các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường. Sự phối hợp giữa các ngành các cấp chưa tốt nên việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật chưa gắn chặt và thống nhất với những yêu cầu về bảo vệ môi trường, việc tổ chức thực hiện hoạt động thương mại thường tách rời với các hoạt động bảo vệ môi trường.

Các cơ chế chính sách được các cơ quan quản lý Nhà nước ban hành ở trung ương và đặc biệt là ở các địa phương nhằm tổ chức quản lý và thực hiện quá trình tự do hoá thương mại ở nước ta trong thời gian qua mới chỉ quan tâm chủ yếu đến tác động của nó đối với sự phát triển, tăng trưởng kinh tế, tăng nguồn thu ngân sách Nhà nước. Trong khi đó sự ảnh hưởng ngược lại của quá trình hoạt động kinh tế đối với môi trường lại chưa được quan tâm một cách đúng mức. Các cơ quan quản lý vẫn cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, giấy phép xuất nhập khẩu một cách tràn lan. Vì vậy ở các ngành các địa phương mới chỉ chú ý đến những nguồn lợi trước mắt mà chưa chú trọng ngăn chặn những ảnh hưởng xấu.

Hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật bảo vệ môi trường, đánh giá tác động môi trường, các quy chế kinh doanh thương mại gắn với việc bảo vệ môi trường chưa được nghiên cứu, xây dựng ban hành một cách kịp thời. Một mặt là do cán bộ của chúng ta năng lực còn hạn chế về thương mại và môi trường nên chưa đủ khả năng nghiên cứu, ban hành những tiêu chuẩn quy chế phù hợp với những yêu cầu bảo vệ môi trường trong từng giai đoạn.

Hoạt động thuế, tài chính tín dụng, ngân hàng đối với các hoạt động kinh tế chưa gắn với mục tiêu yêu cầu bảo vệ môi trường nên chưa có tác dụng ngăn ngừa những hành vi, hoạt động, dự án đầu tư gây tác động xấu đến sự cân bằng

sinh thái cũng như chưa khuyến khích các hành vi, hoạt động, dự án có ảnh hưởng tốt đến môi trường. Hệ thống thuế đối với các doanh nghiệp có liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường chưa được nghiên cứu xây dựng để trở thành một trong những khoản mục quan trọng trong ngành thuế để từ đó có sự đầu tư tương xứng trở lại cho các hoạt động bảo vệ môi trường.‌‌

Xuất phát từ lợi ích cá nhân và nhận thức chưa đầy đủ của từng người dân, từng doanh nghiệp đối với công tác bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nên đã đặt mục tiêu lợi nhuận lên quá cao mà không quan tâm đến môi trường.

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

3.1. VẤN ĐỀ KINH TẾ MÔI TRƯỜNG TRONG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010


3.1.1. Chiến lược bảo vệ môi trường ở nước ta giai đoạn 2001-2010

Các chính sách bảo vệ môi trường của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 nhằm mục tiêu “bổ sung vào hệ thống các chính sách bảo vệ môi trường đã và đang có hiệu lực, tạo ra động lực mới, để thực hiện thành công chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia quốc gia, giai đoạn 2001 – 2010”.

Theo Chỉ thị số 36 – CT/TƯ ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam “Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” đã xác định:

- Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.

- Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng đảm bảo phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

- Coi phòng ngừa và ngăn chặn ô nhiễm là nguyên tắc chủ đạo kết hợp với xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên.

- Kết hợp phát huy nội lực với tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Chiến lược bảo vệ môi trường của nước ta trong giai đoạn 2001 – 2010 đã được xây dựng với những quan điểm mới có liên quan đến vấn đề vừa bảo vệ môi trường đồng thời vẫn phát triển kinh tế, với mục tiêu:

- Giải quyết dứt điểm tình trạng suy thoái môi trường do các cơ sở sản xuất đã gây ra tại nhà máy, xí nghiệp và khu vực xung quanh;

- Chặn đứng các quá trình tiếp tục gây suy thoái môi trường, mà trước hết là đất, rừng, biển và khoáng sản.

- Ngăn chặn tận gốc việc gây ô nhiễm môi trường mà trước hết là ô nhiễm nước, không khí do công nghiệp hoá, hiện đại hoá gây nên.

- Nâng diện tích phủ xanh đất trống, đồi núi trọc lên mức đảm bảo an toàn sinh thái, đủ diện tích cây xanh tính theo đầu người ở các đô thị và khu công nghiệp.

- Bảo toàn sự đa dạng sinh học ở đất liền và ở biển.

- Đảm bảo môi trường lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi của mọi người ở tất cả các khu vực đô thị, công nghiệp, nông thôn, nhà máy, công sở,… đạt tiêu chuẩn môi trường với các chỉ tiêu cơ bản nhất.

- Tăng cường công tác quản lý môi trường ở tất cả các lĩnh vực, trên cơ sở nâng cao năng lực thực hiện Luật Bảo vệ môi trường ở cả trung ương và địa phương.

- Tăng cường hoà nhập quốc tế, thực hiện tốt các nghĩa vụ mà Việt Nam đã cam kết với các nước, các tổ chức quốc tế về bảo vệ môi trường.

Tinh thần của Chiến lược bảo vệ môi trường giai đoạn 2001 – 2010 được dựa trên những thực tế sau:

Nhất thể hoá bảo vệ môi trường trong các chính sách phát triển kinh tế xã hội:

Trong các quan niệm trước đây, các chính sách kinh tế - xã hội chủ yếu nhằm vào sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên. Môi trường và tài nguyên thiên nhiên gần như nằm ngoài sự chú ý của các chính sách quản lý kinh tế - xã hội, hay nói đúng hơn đây là hai mảng chính sách hoàn toàn tách bạch với nhau và hướng vào những mục tiêu khác nhau. Chính sách môi trường chủ yếu nhằm vào đảm bảo nguồn nguyên liệu cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Sự liên hệ giữa hai loại chính sách đó là sự liên hệ giữa nguồn nguyên liệu và quá trình sản xuất.

Cách tiếp cận mới hiện nay coi môi trường không đơn thuần chỉ là nguồn cung cấp nguyên liệu, năng lượng mà là một bộ phận hữu cơ của nền sản xuất xã hội.

Nhất thể hoá bảo vệ môi trường trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội phải bao hàm những yêu cầu về bảo vệ môi trường, và ngược lại, các chính sách bảo vệ môi trường cũng phải thể hiện tính kinh tế trong các quyết định của mình. Tính kinh tế trong bảo vệ môi trường ở đây được hiểu là sự duy trì môi trường tự nhiên một cách kinh tế nhất (chi phí thấp nhất) không chỉ cho quá trình sản xuất hiện tại mà còn cả cho nhu cầu của các thế hệ trong tương lai.

Xem tất cả 103 trang.

Ngày đăng: 26/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí