Khái Quát Về Tình Hình Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội Tác Động Đến Môi Trường Sinh Thái Ở Hải Dương

nâng lên, góp phần vào sự PTBV của tỉnh. Hoạt động kiểm tra, thanh tra việc thực hiện công tác cải tạo, phục hồi môi trường và ký quỹ cải tạo phục hồi môi trường đối với các đơn vị khai thác khoáng sản trên địa bàn được chú trọng: thực hiện đầy đủ việc ĐTM đối với 45 dự án, kiểm tra công tác cải tạo, phục hồi môi trường và ký quỹ cải tạo phục hồi môi trường đối với 30 đơn vị khai thác khoáng sản. Xử lý chất thải rắn đô thị, chất thải rắn y tế được đẩy mạnh. Năm 2010 đã thực hiện 100% cơ sở y tế xây dựng mới có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường. Tổ chức tổng kết 07 năm thực hiện Nghị quyết số 117/2003/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh về một số chủ trương, giải pháp BVMT tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và đề xuất giải pháp BVMT tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.

Có được những thành tựu nói trên là do Quảng Ninh đã có những giải pháp PTKT gắn với BVMT tương đối hiệu quả đặc biệt trong công nghiệp khai thác than và PTKT biển.

- Việc BVMT trong khai thác than: Quảng Ninh có nhiều loại khoáng sản trong đó than đá chiếm 90% trữ lượng cả nước. Trong những năm qua, nhất là từ năm 2003 đến nay, công nghiệp khai khoáng trên địa bàn tỉnh có những bước phát triển đáng kể, đặc biệt là khai thác than đã góp phần quan trọng PTKT - XH của tỉnh. Tuy nhiên, hoạt động khai thác khoáng sản cũng gây nên nhiều tác động tiêu cực tới các nguồn TNTN khác và môi trường, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nhân dân và sự phát triển của các ngành kinh tế khác.

Tình trạng khai thác than lộ thiên, lộ vỉa trên địa bàn tỉnh đang là mối “đe dọa gây ra tình trạng suy thoái môi trường, ngập úng cục bộ tại các khu vực đô thị, dân cư tập trung", Quảng Ninh đã dùng nguồn kinh phí BVMT thu được từ hoạt động khai thác khoáng sản (theo Quyết định 63 của Thủ tướng Chính phủ) tiến hành xây dựng nhiều dự án nạo vét, cải tạo sông, suối ngoài ranh giới mỏ như cải tạo hệ thống thoát nước Khe Chàm - Dương Huy, nạo vét, xây kè và làm hệ thống đập chắn trên phía thượng nguồn các tuyến suối trên địa bàn thị xã Cẩm Phả, nâng cấp, cải tạo một số tuyến đường dân sinh tại Cọc Sáu, Miếu Bòng...

Hiện nay Tập đoàn Công nghiệp Than & Khoáng sản Việt Nam (TKV) cũng đang thực hiện dự án cải tạo cảnh quan, môi trường bốn hồ vùng Đông Triều với tổng mức đầu tư 141 tỷ đồng. Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh, TKV đã dừng khai thác lộ thiên, lộ vỉa, đổ thải ra phía Nam dãy núi thuộc địa bàn

huyện Đông Triều. Tại thị xã Uông Bí đã giải tỏa các bến xuất than cạnh cầu Sông Uông, ngăn chặn đất đá rửa trôi từ khai trường các mỏ than Thùng, Yên Tử xuống suối Vàng Danh, cải tạo các vùng thu nước của trạm xử lý nước Lán Tháp cấp nước cho sinh hoạt, nạo vét sông Mông Dương, suối Ba Toa... Sắp tới, tỉnh tập trung thực hiện các dự án hạ tầng nhằm tạo ra sự đồng bộ về đường bộ, nội bộ các mỏ - liên mỏ, đường bộ vận tải, hệ thống đường sắt, hệ thống băng tải chở than và hệ thống cảng biển, bến thủy nội địa.

Hoàn thành việc xử lý các bãi thải Cao Chính Bắc, Nam Lộ Phong khu vực Thành phố Hạ Long, ngăn chặn có hiệu quả nguy cơ các bãi thải ảnh hưởng xấu đến các khu dân cư, chấm dứt khai thác than lộ thiên tại Thành phố Hạ Long vào năm 2015 và triển khai dự án Cải tạo, phục hồi môi trường các mỏ khai thác than lộ thiên vùng Hạ Long sau năm 2014 - 2015.

- Việc BVMT tại các KCN, các CCN, tỉnh đã tăng cường công tác thanh, kiểm tra và xử lý vi phạm hành chính về BVMT đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, tập trung vào lĩnh vực hạ tầng, công nghiệp, khai khoáng và du lịch. Các đơn vị kinh doanh về cơ bản đã thực hiện kê khai nộp phí nước thải công nghiệp và lập báo cáo quan trắc môi trường, lập báo cáo tác ĐTM và cam kết BVMT. Tỷ lệ KCN đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường năm 2010 là 100%, mục tiêu đến năm 2011 là 100%.

- Vấn đề BVMT biển: trong những năm gần đây, kinh tế biển đã trở thành thế mạnh và là mũi nhọn của Quảng Ninh, nhưng đây cũng là thời kỳ môi trường biển có chiều hướng biến đổi nhanh và có những tác động tiêu cực đến đời sống cộng đồng như bồi lắng bờ biển, lũ lụt, suy thoái hệ sinh thái, ô nhiễm, giảm sút sự ĐDSH và giá trị bảo tồn thiên nhiên diễn ra phức tạp. Vì vậy, cần có sự quán triệt sâu sắc trong cán bộ, đảng viên, từng cấp, từng ngành về Chiến lược biển. Thực hiện chương trình hành động chiến lược biển của Quảng Ninh có rất nhiều việc phải làm, cả trước mắt và lâu dài, có sự kết hợp giữa Chiến lược biển trong kế hoạch PTKT - XH.

Với quan điểm dân ở đảo phải giàu, có như vậy họ mới yên tâm bám đảo, xây dựng bảo vệ biển đảo và là lực lượng mạnh có thể huy động tại chỗ nên phải xem xét chương trình PTKT - XH của từng ngành, từng địa phương gắn với chiến lược biển của trung ương, của tỉnh; quy hoạch đầu tư xây dựng các tuyến đường ven biển, hệ thống cảng biển và các tuyến vận chuyển trên biển. Tăng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các cơ sở nghiên cứu, dự báo về khí hậu, quan trắc môi trường. Triển khai có hiệu quả các chương trình nâng cấp đê biển, đê sông, giải pháp chống ngập úng cho các khu dân cư; ứng phó hiệu quả với thiên tai bão lũ [64].

1.3.2. Những bài học kinh nghiệm đối với Hải Dương

Môi trường sinh thái trong phát triển kinh tế ở Hải Dương - 6

Hải Phòng và Quảng Ninh là 2 đỉnh của tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Do phát huy được thế mạnh về vị tría địa lý, TNTN, 2 tỉnh đã đạt được những thành tựu quan trọng trở thành những tỉnh đứng đầu cả nước về tốc độ TTKT, về GDP, về thu nhập bình quân đầu người... gắn với bảo vệ MTST. Qua thực tế giải quyết mối quan hệ giữa PTKT và MTST có thể rút ra nhiều kinh nghiệm cho vấn đề MTST trong PTKT ở Hải Dương. Đó là:

- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để phát huy tối đa những lợi thế của địa phương.

- Làm tốt công tác quy hoạch, phát triển tổng thể KT - XH nói chung, đặc biệt trong quy hoạch PTKT phải xác định được những ngành kinh tế mũi nhọn, những sản phẩm tiềm năng; xây dựng được những KCN, CCN tập trung để tạo điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng và kiểm soát tốt ô nhiễm để bảo vệ MTST.

- Tăng cường công tác quản lý đất đai, rà soát việc thực hiện các dự án có sử dụng đất trên địa bàn tỉnh và tiến hành thực hiện nghĩa vụ tài chính của các chủ đầu tư; thu hồi, xử lý các dự án đầu tư vi phạm pháp luật về đất đai, xây dựng, môi trường…

- Thực hiện thường xuyên, triệt để công tác thanh tra, giám sát, quản lý đối với việc khai thác tài nguyên, khoáng sản, BVMT, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

- Đầu tư nguồn lực thực hiện các dự án BVMT đạt tiêu chuẩn.

- Nghiên cứu, triển khai tốt chủ trương, chính sách chung của Nhà nước về PTKTBV cũng như phải ban hành được chính sách kinh tế riêng của địa phương phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể [23].

* *

*

MTST là nơi sinh sống và hoạt động của con người, là nơi tồn tại của xã hội. Nó có vai trò to lớn, quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mọi loại sinh vật sống trên trái đất. Còn PTKT là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật

chất và tinh thần của con người thông qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội. PTKT là xu thế và mục tiêu chung của các quốc gia trên thế giới. Giữa PTKT và MTST có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: MTST là địa bàn và đối tượng của PTKT, còn PTKT là nguyên nhân tạo nên các biến đổi về MTST.

Quá trình PTKT đòi hỏi một lượng lớn các nhu cầu về năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu dẫn đến phải tăng cường khai thác các nguồn tài nguyên. Xưa nay, chúng ta thường khai thác bừa bãi, không có kế hoạch, sử dụng phương tiện lạc hậu làm lãng phí TNTN và làm chất lượng MTST xấu đi. Trong giai đoạn tới, nếu không được quan tâm đúng mức giữa PTKT và BVMT, nếu chỉ chú trọng nhiều đến PTKT thì nguy cơ cạn kiệt tài nguyên và ONMT sẽ lại trở thành một rào cản lớn đối với sự phát triển trong tương lai. Do đó, việc nắm rò các quy luật của tự nhiên, tôn trọng thiên nhiên, hiểu và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa PTKT và MTST không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận, mà còn rất quan trọng về mặt thực tiễn giúp con người có những tác động phù hợp với xu hướng vận động của MTST, chung sống hòa hợp với thiên nhiên, nhằm hạn chế tối đa những tác động tiêu cực, tạo ra hiệu quả tích cực. Vì vậy, mỗi tác động của con người đối với MTST trong quá trình PTKT cần phải được tính toán, cân nhắc thận trọng và khoa học, đảm bảo MTST luôn được duy trì và vận động một cách tốt nhất mang lại hiệu quả KT - XH, nhằm hướng đến sự PTBV - đó là một tất yếu khách quan.

Qua thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa PTKT và MTST ở Hải Phòng và Quảng Ninh - 2 tỉnh giáp ranh và có một số điều kiện tương đồng, Hải Dương có thể tham khảo, học hỏi được một số kinh nghiệm quý báu. Tuy nhiên, mỗi tỉnh có những điều kiện và lợi thế riêng. Nên trong quá trình PTKTBV, Hải Dương phải nghiên cứu, đề ra các chủ trương, chính sách cụ thể phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh riêng để kết hợp, vận dụng một cách tối ưu các giải pháp, bảo đảm mang lại hiệu quả cao nhất.

Chương 2‌‌

THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở HẢI DƯƠNG


2.1. Khái quát về tình hình phát triển kinh tế - xã hội tác động đến môi trường sinh thái ở Hải Dương

2.1.1. Một số tiềm năng thế mạnh của Hải Dương

2.1.1.1. Tiềm năng khoáng sản

Theo số liệu điều tra năm 2008 về nguồn tài nguyên khoáng sản của Hải Dương đã cho thấy: rất phong phú và đa dạng.

Hải Dương có tổng số 26 mỏ khoáng sản với trữ lượng khác nhau như: Than đá, than bùn: Trữ lượng ước tính khoảng 8 triệu tấn.

Cao lanh: 40 vạn tấn Bôxít: 151.000 tấn Đá vôi: 200 triệu tấn.

Thuỷ ngân hàm lượng từ 10 - 30g/tấn, trữ lượng khoảng 110 tấn.

Trong số những loại khoáng sản của Hải Dương, nổi bật nhất là khoáng sản làm nguyên vật liệu xây dựng, phát triển ngành công nghiệp xi măng với quy mô lớn nhất đất nước hiện nay, sản lượng 5 triệu tấn xi măng/ năm. Khoáng sản cao lanh của Hải Dương có chất lượng tốt để phát triển ngành công nghiệp sành sứ.

Hiện nay tình trạng khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên này không có quy hoạch kế hoạch dẫn đến lãng phí và tổn hại đến MTST.

2.1.1.2. Tài nguyên đất

Tỉnh Hải Dương có 84.900 ha diện tích đất tự nhiên. Trong đó, diện tích đất nông nghiệp là 54.421 ha, chiếm 64,1%; diện tích đất lâm nghiệp có rừng là

9.147 ha, chiếm 10,77%; diện tích đất chuyên dùng là 13.669 ha, chiếm 16,1%; diện tích đất ở là 5.688,3 ha, chiếm 6,7% và diện tích đất chưa sử dụng, sông suối đá là 6.368 ha, chiếm 7,5%.

Trong đất nông nghiệp, diện tích đất trồng cây hàng năm là 83.124 ha, chiếm 78,66%, riêng đất lúa có 72.500 ha gieo trồng được 2 vụ; diện tích đất trồng cây lâu năm là 10.636 ha, chiếm 10%; diện tích đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 7.276 ha, chiếm 6,88%. Diện tích đất trống, đồi trọc cần phủ xanh

7.396 ha, diện tích đất mặt nước chưa được khai thác là 1.364 ha. Tính đến năm 2002, toàn tỉnh có 9.147 ha rừng, tỷ lệ che phủ đạt 5,9%. Trong đó: diện tích rừng tự nhiên là 3.104 ha, diện tích rừng trồng là 6.043 ha [52].

2.1.1.3. Tài nguyên nước

Hải Dương có hệ thống sông ngòi dày đặc, diện tích của các con sông khoảng 10.944 ha, chiếm 6,6% diện tích đất tự nhiên của tỉnh với các sông lớn như: sông Thái Bình, sông Luộc, sông Kinh Thầy… Có nhiều sông nội đồng thuộc hệ thống sông Bắc - Hưng - Hải thuận tiện cho việc giao thông, thuỷ lợi.

Nước thượng nguồn chảy qua sông Thái Bình khoảng 30 - 40 tỷ m3/ năm. Ngoài ra trong các tầng địa chất của Hải Dương đều có trữ lượng nước ngầm khá phong phú, tuy nhiên chỉ có khoảng 30% là không bị nhiễm mặn có thể cấp ngay cho sinh hoạt và sản xuất công nghiệp.

Nguồn nước khoáng nóng của Hải Dương đến nay cũng đã phát hiện được 07 điểm, tập trung ở vùng đồng bằng ven Thành phố Hải Dương thuộc các huyện Nam Sách, Cẩm Giàng, Gia Lộc. Nguồn nước khoáng nóng là đối tượng khoáng sản hiếm có thể sử dụng vào liệu pháp chữa bệnh, đóng chai làm nước giải khát.

2.1.1.4. Tài nguyên sinh vật

Qua điều tra khảo sát của Viện Sinh thái Tài nguyên Sinh vật trong những năm gần đây đã phát hiện có khoảng 400 loài thực vật, trong đó có 13 loài quý như Lim xanh, Đỗ trọng, Ngũ gia bì…Có khoảng 500 loài động vật, trong đó có 22 loài quý được ghi trong sách đỏ Việt Nam. Về cây làm thuốc có khoảng 200 loài, tập trung nhiều nhất ở vườn Dược Sơn - Chí Linh.

Hải Dương trong tương lai do có lợi thế về TNTN, trong chiến lược PTKT sẽ tiến hành điều tra chi tiết và có quy hoạch cụ thể để phục vụ cho phát triển ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng mà sản phẩm chủ yếu là xi măng, phát triển du lịch sinh thái với những cảnh quan hấp dẫn như khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc, vườn Dược Sơn, vườn chim ở Chi Lăng Nam (Thanh Miện) và nguồn nước khoáng nóng cho dưỡng sinh chữa bệnh và công nghiệp nước khoáng giải khát.

2.1.1.5. Về nông nghiệp

Hàng năm diện tích đất gieo trồng của Hải Dương đạt từ 107.000 -

110.000 ha, tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt khoảng 460.800 tấn.

Trong những năm tới, Hải Dương tiếp tục đẩy nhanh việc thực hiện

chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi để hình thành những vùng sản xuất tập trung gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm; đẩy mạnh thực hiện các dự án như trồng rau sạch, nuôi thuỷ sản, những loài cá và con đặc sản cho năng suất cao, thịt ngon. Tiếp tục quy hoạch, chuyển đổi diện tích cấy lúa kém hiệu quả sang nuôi thuỷ sản và trồng các loại cây khác có hiệu quả kinh tế cao hơn. Phát triển đàn gia súc, gia cầm và đẩy mạnh công tác phòng chống dịch bệnh. Tăng cường ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, nhân rộng các mô hình sản xuất tiên tiến ra các địa phương trong toàn tỉnh, phấn đấu để ngày càng có nhiều hecta đạt trên 50 triệu đồng.

Hiện nay trong sản xuất nông nghiệp vấn đề môi trường cũng đang là những bức xúc do việc sử dụng quá nhiều phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, thuốc kích thích sinh trưởng không đúng kỹ thuật đã gây ô nhiễm nguồn nước và đất, ĐDSH bị xâm hại, nhiều loài động vật đã bị tuyệt diệt, thiên địch nông nghiệp xuất hiện ngày càng nhiều và đa dạng, công việc phòng ngừa rất khó khăn.

2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương

2.1.2.1. Về trình độ phát triển kinh tế - xã hội

Tỉnh Hải Dương được tái lập năm 1997, từ đó đến nay TTKT của tỉnh luôn duy trì ổn định ở mức cao, CCKT chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) giai đoạn 1996-2000 đạt bình quân tăng trưởng 9,2%, giai đoạn 2001-2005 là 10,8%, cao hơn mức bình quân cả nước cùng kỳ 3,1%, năm 2006 tăng trưởng GDP của tỉnh là 11% giai đoạn 2006-2010 tăng bình quân 9,8%/năm; Quy mô kinh tế của tỉnh được nâng lên, tổng sản phẩm năm 2010 gấp 2,3 lần so với năm 2005. GDP bình quân đầu người đạt 17,9 triệu đồng, tương đương khoảng 964 USD (mục tiêu 17 triệu đồng). CCKT tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thuỷ sản - nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. CCKT: Công nghiệp - Dịch vụ

- Nông nghiệp năm 2006 đạt tỷ lệ 43,7% - 29,4% - 26,9%. Năm 2009 là 44,2% -

31,1% - 24,6%. Năm 2010 là 45,4% - 31,6% - 23%.

Biểu đồ 2.1. Cơ cấu kinh tế năm 2006 (Đơn vị: %)

Nguồn:[25, tr12]

Biểu đồ 2.2. Cơ cấu kinh tế năm 2010 (Đơn vị: %)


Nguồn:[25, tr12]

Theo đó, cơ cấu lao động có sự chuyển dịch tương ứng từ 70,5% lao động nông nghiệp năm 2005 giảm xuống còn 54,5% năm 2010; công nghiệp, dịch vụ từ 29,5% năm 2005 tăng lên 45,5% năm 2010.

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 28/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí