1.1.2.2 Vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội
(1) - Là động lực tăng trưởng kinh tế: Mục tiêu cơ bản trong thu hút FDI của một quốc gia hay một địa phương là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu này được thực hiện thông qua tác động tích cực của FDI đến các yếu tố quan trọng quyết định tốc độ tăng trưởng: bổ sung nguồn vốn trong nước và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế; tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và phát triển khả năng công nghệ nội địa; phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm; thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận với thị trường thế giới; tạo liên kết giữa các ngành công nghiệp.
(2) - Vốn đầu tư và cán cân thanh toán quốc tế: FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn ngoại tệ của các nước nhận đầu tư đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Hầu hết các nước đang phát triển đều rơi vào cái “vòng luẩn quẩn” đó là: Thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp rồi hậu quả lại là thu nhập thấp. Tình trạng luẩn quẩn này chính là “điểm nút” khó khăn nhất mà các nước này phải vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo tăng trưởng kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng trì trệ của sự nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra được điểm đột phá chính xác một mắt xích của “vòng luẩn quẩn” này. Trở ngại lớn nhất để thực hiện điều đó đối với các nước đang phát triển đó là vốn đầu tư kỹ thuật. Vốn đầu tư là cơ sở để tạo ra công ăn việc làm trong nước, đổi mới công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động… Từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập, tăng tích lũy cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, để tạo vốn cho nền kinh tế nếu chỉ trông chờ vào tích lũy nội bộ thì không đáp ứng đủ mức cần thiết, do đó vốn nước ngoài sẽ là một “cú hích” để góp phần đột phá cái vòng luẩn quẩn đó. Đặc biệt FDI là một nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ cho nước nhận đầu tư. Hơn nữa luồng vốn này có lợi thế hơn đối với vốn vay ở chỗ: Thời hạn trả nợ vốn vay thường cố định và
đôi khi quá ngắn so với một số dự án đầu tư, còn thời hạn của FDI thì thường linh hoạt hơn.
Theo mô hình lý thuyết “ hai lỗ hổng” của Cherery và Strout, có hai cản trở chính cho sự tăng trưởng của một quốc gia đó là: (1) Tiết kiệm không đủ đáp ứng cho nhu cầu đầu tư được gọi là: “ lỗ hổng tiết kiệm”. (2) Thu nhập của hoạt động xuất khẩu không đủ đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu được gọi là: “ lỗ hổng thương mại”. Hầu hết ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam hai lỗ hổng trên rất lớn (xem bảng 1.1), vì vậy FDI còn là một nguồn quan trọng không chỉ để bổ sung nguồn vốn nói chung mà cả sự thiếu hụt về ngoại tệ nói riêng bởi vì FDI góp phần nhằm tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng khả năng xuất khẩu của nước nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ các công ty nước ngoài, thu ngoại tệ từ các hoạt dộng dịch vụ cho FDI.
Bảng 1.1 – Tỷ trọng các nguồn vốn đầu tư tại Việt Nam 2006 - 2009
Vốn nhà nước | Vốn ngoài quốc doanh | Vốn đầu tư nước ngoài | |
2006 | 45,7 | 38,1 | 16,2 |
2007 | 37,2 | 38,5 | 24,3 |
2008 | 28,6 | 40,0 | 31,4 |
2009 | 34,6 | 39,5 | 25,7 |
Có thể bạn quan tâm!
- Môi trường đầu tư và tác động của nó đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tỉnh Hải Dương - 1
- Môi trường đầu tư và tác động của nó đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tỉnh Hải Dương - 2
- Môi Trường Đầu Tư Và Các Yếu Tố Cấu Thành
- Tác Động Của Môi Trường Đầu Tư Đến Thu Hút Fdi
- Những Lợi Thế Của Hải Dương Trong Việc Thu Hút Fdi
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
Nguồn: Tổng cục thống kê [27]
(3) - Chuyển giao và phát triển công nghệ: FDI được coi là nguồn quan trọng để phát triển khả năng công nghệ của địa phương. Vai trò này được thể hiện qua hai khía cạnh chính là chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài vào và phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng trong nước. Đây là những mục tiêu quan trọng được các địa phương tiếp nhận FDI mong đợi từ các nhà đầu tư nước ngoài. Chuyển giao công nghệ thông qua FDI thường được thực hiện chủ yếu bởi các TNCs, dưới các hình thức:
Chuyển giao trong nội bộ giữa các chi nhánh của một TNCs và chuyển giao giữa các chi nhánh của các TNCs. Những năm gần đây, các hình thức này thường đan xen nhau với các đặc điểm rất đa dạng. Phần lớn công nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của TNCs sang nước đang phát triển ở hình thức 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh có phần lớn vốn nuớc ngoài, dưới các hạng mục chủ yếu như những tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ, công nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công nghệ marketting. Nhìn chung, các TNCs rất hạn chế chuyển giao những công nghệ mới có tính cạnh tranh cao cho các chi nhánh của chúng ở nước ngoài vì sợ lộ bí mật hoặc mất bản quyền công nghệ do việc bắt trước, cải biến hoặc nhái lại công nghệ của các công ty nước chủ nhà. Mặt khác, do các nước,địa phương nhận FDI còn chưa đáp ứng được yêu cầu sử dụng công nghệ của các TNCs.
Bên cạnh chuyển giao công nghệ sẵn có, thông qua FDI các TNCs còn góp phần tích cực đối với tăng cường năng lực nghiên cứu và phát triển công nghệ của nước chủ nhà. Các kết quả cho thấy phần lớn các hoạt động của các chi nhánh TNCs ở nước ngoài là cải biến công nghệ cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương. Dù vậy, các hoạt động cải tiến công nghệ của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều mối quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trong nước. Nhờ đó đã gián tiếp tăng cường năng lực phát triển công nghệ địa phương. Mặt khác, trong quá trình sử dụng công nghệ nước ngoài, các nhà đầu tư và phát triển công nghệ nước ngoài, các nhà đầu tư và phát triển công nghệ trong nước học được cách thiết kế, chế tạo…công nghệ nguồn, sau đó cải biến cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương và biến chúng thành công nghệ của mình. Nhờ có những tác động tích cực trên, khả năng công nghệ của nước chủ nhà được tăng cường, vì thế nâng cao năng suất từ đó thúc đẩy được tăng trưởng.
(4) - Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm: Nguồn nhân lực có ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động sản xuát, các vấn đề xã hội và mức độ tiêu dùng của dân cư. Việc cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua đầu tư vào các lĩnh vực: sức khoẻ, dinh dưỡng, giáo dục, đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng quản lý sẽ tăng hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, nâng cao được năng suất lao động và các yếu tố sản xuất khác, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài ra, tạo việc làm không chỉ tăng thu nhập cho người lao động mà còn góp phần tích cực giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là các yếu tố có ảnh hưởng rất lớn dến tốc độ tăng trưởng.
FDI ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tạo ra công việc làm thông qua việc cung cấp việc làm trong các hãng có vốn đầu tư nước ngoài. FDI còn tạo ra những cơ hội việc làm trong những tổ chức khác khi các nhà đầu tư nước ngoài mua hàng hóa dịch vụ từ các nhà sản xuất trong nước, hoặc thuê họ thông qua các hợp đồng gia công chế biến. Thực tiễn ở một số nước cho thấy FDI đã đóng góp tích cực tạo ra việc làm trong các ngành sử dụng nhiều lao động như ngành may mặc, điện tử, chế biến. Theo thống kê chính thức đến năm 2008, số lao động trực tiếp làm trong các doanh nghiệp có vốn đàu tư nước ngoài ở Việt Nam là 1,8 triệu người chiếm gần 4% tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế. Nếu tính cả đội ngũ lao động làm việc trong các doanh nghiệp có liên quan đến các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì lượng lao động này còn lớn hơn nhiều.
Thông qua khoản trợ giúp tài chính hoặc mở các lớp đào tạo dạy nghề, FDI còn góp phần quan trọng đối vơí phát triển giáo dục của nước chủ nhà trong các lĩnh vực giáo dục đại cương, dạy nghề, nâng cao năng lực quản lý. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đóng góp vào quỹ phát triển giáo dục phổ thông, cung cấp một số thiết bị giảng dạy cho các cơ sở giáo dục của nước chủ nhà, tổ chức các chương trình phổ cập kiến thức có bản cho người lao
động bản địa làm việc trong dự án (trong đó có nhiều lao động được đi đào tạo ở nước ngoài).
FDI nâng cao năng lực quản lý của nước chủ nhà theo nhiều hình thức như các khoá học chính quy, không chính quy, và học thông qua làm việc. Tóm lại, FDI đem lại lợi ích về tạo công ăn việc làm. Đây là một tác động kép: tạo thêm việc làm cũng có nghĩa là tăng thêm thu nhập cho người lao động, từ đó tạo điều kiện tăng tích luỹ trong nước. Tuy nhiên, sự đóng góp của FDI đối với việc làm trong các nước nhận đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và khả năng kỹ thuật của nước đó.
(5) - Thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận với thị trường thế giới. Xuất nhập khẩu có mối quan hệ nhân quả với tăng trưỏng kinh tế. Mối quan hệ này được thể hiện ở các khía cạnh” xuất nhập khẩu cho phép khai thác lợi thế so sánh, hiệu quả kinh tế theo quy mô, thực hiện chuyên môn hoá sản xuất; nhập khẩu bổ sung các hàng hoá, dịch vụ khan hiếm cho sản xuất và tiêu dùng; xuất nhập khẩu còn tạo ra các tác động ngoại ứng như thúc đẩy trao đổi thông tin dịch vụ, tăng cường kiến thức marketting cho các doanh nghiệp nội địa và lôi kéo họ vào mạng lưới phân phối toàn cầu. Tất cả các yếu tố này sẽ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm một tỷ trọng lớn trong xuất khẩu ở hầu hết các quốc gia đặc biệt là ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam (xem bảng 1.2). Thông qua FDI, các nước đang phát triển có thể tiếp cận với thị trường thế giới bởi vì, hầu hết các hoạt động FDI đều do các công ty xuyên quốc gia thực hiện, mà các công ty này có lợi thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở thanh thế và uy tín của họ về chất lượng, kiểu dáng sản phẩm và giao hàng đúng hẹn.
Bảng 1.2 Vị trí của FDI trong xuất khẩu (%) [28]
Khu vực kinh tế Trong nước | Khu vực có vốn đầu tư Nước ngoài | |
2000 | 53 | 47 |
2005 | 42,8 | 57,2 |
2008 | 44,9 | 55,1 |
(6) - Liên kết các ngành công nghiệp: Liên kết giữa các ngành công nghiệp được biểu hiện chủ yếu qua tỷ trọng giá trị hàng hoá (tư liệu sản xuất, nguyên vật liệu đầu vào), dịch vụ trao đổi trực tiếp từ các công ty nước ngoài ở nước chủ nhà. Việc hình thành các liên kết này là cơ sở quan trọng để chuỷen giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và thúc đẩy xuất nhập khẩu của nước chủ nhà. Cụ thể: Qua các hoạt động cung ứng nguyên vật liệu, dịch vụ cho các công ty nước ngoài sản xuất hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp nội địa phát triển năng lực sản xuất của mình (mở rộng sản xuất, bắt chước quy trình sản xuất và mẫu mã hàng hoá…). Sau một thời gian nhât định các doanh nghiệp trong nước có thể tự xuất nhập khẩu được. FDI tác động mạnh đến cạnh tranh và độc quyền thông qua việc thêm vào các đối thủ cạnh tranh hoặc sử dụng sức mạnh của mình đẻ khống chế thị phần ở nước chủ nhà. Từ thúc đẩy cạnh tranh, FDI góp phần làm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn, nhờ đó đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhờ có FDI, cơ cấu nền kinh tế của nước chủ nhà chuyển dịch nhanh chóng theo chiều hưóng tăng nhanh tỷ trọng các ngành công nghiệp dịch vụ và giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp, khai thác trong GDP.
(7) - Các tác động quan trọng khác
Ngoài những tác động kể trên, FDI còn tác động đáng kể đến các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế như: chất lượng môi trường, cạnh tranh và độc quyển, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, hội nhập khu vực và quốc tế.
Mặc dù chất thải của các công ty nước ngoài, nhất là trong các ngành khai thác và chế tạo, là một trong những nguyên nhân quan trọng gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng ở các nước đang phát triển tuy nhiên có nhiều nghiên cứu cho thấy các TNCs rất chú trọng và tích cực bảo vệ môi trường hơn các công ty nội địa. Bởi vì, quy trình sản xuất của họ thường được tiêu chuẩn hoá cao nên dễ đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường của nước chủ nhà. Hơn nữa, các TNCs thường có tiềm lực tài chính lớn do đó có điều kiện thuận lợi trong xử lý các chất thải và tham gia góp quỹ, hỗ trợ tài chính cho các hoạt động bảo vệ môi trường.
FDI là một trong những hình thức quan trọng của các hoạt động kinh tế đối ngoại và nó có liên quan chặt chẽ đến tất cả các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá- xã hội của các quốc gia, do đó sự phát triển của lĩnh vực này thúc đẩy sự hoà nhập khu vực và quốc tế của nước chủ nhà.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu và thực tiễn cũng chỉ ra rằng không phải bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu FDI cũng phát huy tác động tích cực đối với đời sống kinh tế xã hội của địa phương tiếp nhận đầu tư. Nó chỉ có thể phát huy những tác dụng tốt trong môi trường kinh tế, chính trị ổn định và đặc biệt là nhà nước biết sử dụng và phát huy vai trò quản lý của mình. Những hạn chế các nhà nghiên cứu chỉ ra đó là:
- Những khiếm khuyết, bất cập trong tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thể hiện:
+ Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực nông – lâm – thủy sản hết sức ỏi về tỷ trọng trên tổng số dự án và vốn trên tổng vốn đăng ký.
+ Trong những năm gần đây, nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ, bất động sản khá mạnh vào khu vực dịch vụ, bất động sản… Năm 2007, tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực này chỉ chiếm
25% trên tổng số vốn đăng ký, năm 2008 là 36,8% và sáu tháng đầu năm 2009 lên tới 60%. Đó là lĩnh vực thu hút không nhiều lao động và tác động lan tỏa không cao. [6, tr.176]
+ Theo vùng lãnh thổ, vốn FDI chủ yếu tập trung ở Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Hồng. Trong khi đó, vùng trung du miền núi phía Bắc, vùng Tây Nguyên số dự án và số vốn đăng ký chiế, tỷ trọng nhỏ. Điều này cho thấy tác động của FDI đến việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và vùng kinh tế không thực sự mạnh mẽ.
- Những khiếm khuyết, bất cập trong việc đảm bảo yêu cầu bảo vệ môi trường sinh thái.
Nhiều doanh nghiệp FDI không từ thủ đoạn để kiếm lợi nhuận, không bỏ vốn để xử lý chất thải mà còn cố tình xả thải ra môi trường. Tình trạng suy thoái và ô nhiễm môi trường xung quanh các khu công nghiệp có xu hướng tăng mạnh, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống nhân dân. Vedan Việt Nam là một trường hợp điển hình không phải là trường hợp cá biệt.
- Những khiếm khuyết, bất cập trong việc thực hiện chính sách đối với người lao động. Trong những năm gần đây, các cuộc đình công ở các doanh nghiệp FDI có xu hướng gia tăng. Kể từ khi ban hành bộ luật Lao động mới (2005) đã xảy ra khoảng 3000 cuộc đình công ở các doanh nghiệp trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp FDI. Điều này chứng tỏ, những chính sách đối với người lao động chưa hợp lý, gây bất bình từ phía người lao động,
- Ngoài ra:
+ Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng những “sơ hở” của luật pháp và trong quản lý của nước chủ nhà để trục lợi cá nhân như có các hành vi trốn thuế, gây tác hại đến môi trường sinh thái và lợi ích của nước chủ nhà.
+ Chuyển giao công nghệ là mặt tác động lớn của FDI song cũng còn tồn tại nhiều hạn chế và tiêu cực, trong đó có việc chuyển giao nhỏ giọt, từng