Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại Việt Nam - 19


Nếu lạm phát tiếp tục được giữ ổn định (thấp hơn 4%) như thời gian qua thì mục tiêu ổn định lãi suất là khả thi, lãi suất sẽ là yếu tố chủ đạo để bình ổn ngân sách. Theo báo cáo của NHNN, từ đầu năm 2019 đến hết 3/2021, lãi suất điều hành và lãi suất huy động đều có xu hướng giảm (từ 7% xuống khoảng trên 5% với lãi suất huy động; từ 6% xuống trên 4% với lãi suất tái cấp vốn và từ 4% xuống còn khoảng trên 2% với lãi suất chiết khấu). Đây có thể xem là tín hiệu tốt cho sự hạ nhiệt của mặt bằng lãi suất tại Việt Nam sau một giai đoạn dài trước đó ở mức rất cao. Tuy nhiên, sự suy giảm đó có nguyên nhân lớn đến từ đại dịch Covid -19 khi cả tổng cung và tổng cầu đều suy giảm ở mức đáng kể. Trong thời gian tới (từ giữa năm 2021 trở đi) khi nền kinh tế bước vào giai đoạn phục hồi sau đại dịch, và nhất là sau khi đã có một lượng tiền lớn từ các gói cứu trợ đã đổ vào nền kinh tế trước đó thì nguy cơ phải tăng lãi suất danh nghĩa trở lại để ổn định lạm phát là rất có thể xảy ra và hệ quả của lãi suất tăng sẽ kéo theo cán cân ngân sách suy yếu. Do vậy việc thực hiện chính sách tiền tệ như giảm cung tiền cần phải thận trọng để không gây tác động tiêu cực đến THNS mà vẫn đảm bảo khuyến khích sản xuất phát triển.

- Thứ hai, đối với GDP: GDP chỉ gây ảnh hưởng làm bội chi ngân sách gia tăng khi GDP giảm. Do vậy, cần duy trì tăng trưởng dương của GDP để đảm bảo mục tiêu về thu nhập và hạn chế áp lực chi tiêu. Tất nhiên, tăng trưởng dương phải đi đôi với việc đảm bảo kiểm soát tốt lạm phát và các cân đối vĩ mô nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng. Đề xuất này của Luận án tuy không mới vì cũng đã từng được đề cập trong Nghị quyết số 85/2019/QH14 của Quốc hội về “Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020”, được Chính phủ thực hiện trong suốt giai đoạn vừa qua (2001-2020) đã cho thấy hiệu quả rò rệt khi Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu khi duy trì được mức tăng trưởng dương trong bối cảnh có nhiều biến động đến từ bên trong và bên ngoài. Song trong giai đoạn mới, đặc biệt là trong ngắn và trung hạn khi tác động của dịch Covid - 19 đối với Việt Nam còn rất nặng nề và về thực chất, mô hình tăng trưởng của Việt Nam chưa thoát khỏi việc dựa vào vốn, thì đây cũng vẫn là một trong những giải pháp có hiệu quả góp phần làm giảm bội chi.

Tóm lại trong ngắn hạn và trung hạn những thay đổi trong chính sách về lãi suất và GDP đều có ý nghĩa nhằm cải thiện tình trạng bội chi. Tuy nhiên, tác động của chúng đến ngân sách là phức tạp và khó dự báo do có tính bất đối xứng. Do vậy, các nhà hoạch định cần lưu ý để có những dự báo chính xác về biến động của ngân sách trước những tác động đến từ các biến vĩ mô này nhằm xây dựng được các kịch bản ứng phó thích hợp với những biến động từ khu vực ngân sách.


4.2.2. Nhóm giải pháp dài hạn

Nếu những giải pháp trong ngắn hạn chỉ mang tính ổn định tức thời thì những giải pháp dài hạn nhằm hướng đến tính bền vững trong phát triển. Theo nhóm nghiên cứu Ngô Thắng Lợi và Vũ Thành Hưởng (2015), phát triển bền vững ở Việt Nam trong bối cảnh mới được hiểu là sự phát triển dựa trên kết hợp nội lực với sức mạnh của hội nhập, từ đó tạo ra những thành tựu mang tính lan tỏa tích cực, hướng tới mục tiêu phát triển vì con người. Từ đó, các nhà khoa học này nhấn mạnh đến nội hàm của phát triển bền vững bao gồm 3 trụ cột:

- Trụ cột 1: Tăng trưởng kinh tế bền vững

- Trụ cột 2: Tăng trưởng kinh tế thúc đẩy tiến bộ xã hội

- Trụ cột 3: Tăng trưởng kinh tế gắn với sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 257 trang tài liệu này.

Có thể thấy trong nội dung 3 trụ cột trên thì tăng trưởng kinh tế bền vững là điều kiện để phát triển bền vững. Nghiên cứu này cũng khẳng định với điều kiện của Việt Nam hiện nay thì tăng trưởng bền vững được hiểu là: “tốc độ tăng trưởng nhanh và hiệu quả trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu ngành hợp lý và trong điều kiện các cân đối vĩ mô luôn được giữ ở ngưỡng an toàn” (tr.107). Trên cơ sở các nội hàm đó, kết hợp với khuôn khổ nghiên cứu của Luận án, các giải pháp đưa ra trong dài hạn sẽ tập trung vào trụ cột (tăng trưởng kinh tế bền vững) như sau:

+ Đối với mô hình tăng trưởng: tiếp tục đẩy nhanh quá trình thay đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu: Để chuyển dịch mô hình tăng trưởng thành công, thoát khỏi nhóm nước thu nhập trung bình thấp, trở thành nước phát triển thì trong thời gian tới, Chính phủ cần tận dụng thành quả của cuộc cách mạng 4.0, quyết liệt thực hiện kết hợp 3 đột phá chiến lược: hoàn thiện thể chế phù hợp với mô hình phát triển và hội nhập; phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực cao; xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ. Việt Nam cần nỗ lực đẩy nhanh hơn nữa quá trình chuyển dịch sang cơ cấu kinh tế của nước thu nhập trung bình cao (tăng mức đóng góp của ngành công nghiệp và dịch vụ lên trên 90% GDP, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp xuống thấp hơn 10% GDP), tăng mức đóng góp của TFP lên trên 50%, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, thông qua việc giảm giá trị của ICOR hiện là 6,07 (năm 2019) xuống thấp hơn nữa (dưới 5,0). Quá trình giảm tỷ trọng nông nghiệp cần đi đôi với tái cơ cấu tất cả các ngành và khu vực sản xuất trong nền kinh tế, tăng cường đầu tư khoa học công nghệ để nâng cao năng suất, giá trị gia tăng cho sản phẩm; hướng đến nền “kinh tế tuần hoàn” và “sản xuất xanh”. Bên cạnh đó, Việt Nam cần phát triển nguồn lao động chất lượng cao ở tất

Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại Việt Nam - 19


cả các khu vực sản xuất, khuyến khích người dân không ngừng đổi mới sáng tạo, năng động, thích nghi với hội nhập, chấp nhận cạnh tranh, không đầu hàng trước khó khăn, thất bại trong quá trình đổi mới. Một điểm mới trong chuyển dịch mô hình mà WB đưa ra để Việt Nam có thể tránh bẫy Covid -19 đó là phát triển nền kinh tế “không tiếp xúc”. Việc thoát khỏi mô hình tăng trưởng truyền thống, hướng đến nền kinh tế tận dụng sức mạnh công nghệ số, trí tuệ nhân tạo sẽ giải phóng nguồn lực tăng trưởng ở mức cao hơn, thúc đẩy nhanh quá trình nâng cao thu nhập song vẫn đảm bảo ổn định các cân đối vĩ mô trong bối cảnh mới.

Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến mối quan hệ ngược chiều giữa cán cân ngân sách và thương mại ở Việt Nam thời gian qua như đã được chỉ ra ở chương 3 là do sự bất ổn về cơ cấu của hai khu vực này. Trong dài hạn việc khắc phục được “điểm nghẽn” đó sẽ mang lại cơ hội giúp thay đổi bản chất của quan hệ giữa hai thâm hụt (chuyển từ quan hệ nghịch biến hiện nay sang quan hệ đồng biến) và làm cải thiện mối quan hệ. Do đó phần tiếp theo, luận án sẽ tập trung vào những giải pháp nhằm cải cách về chính sách và cơ cấu của khu vực tài khóa và thương mại.

+ Đối với khu vực ngân sách:

a. Nhóm giải pháp về chính sách tài khóa: Việc điều hành ngân sách phải linh hoạt hơn nữa trong bối cảnh kinh tế luôn biến động như hiện nay. Trong giai đoạn tăng trưởng, Chính phủ có thể chủ động lên kế hoạch giảm chi tiêu trên cơ sở có sự phối hợp chặt chẽ với chính sách vĩ mô cơ bản khác như chính sách tiền tệ và chính sách thương mại để tạo ra nhiều dư địa tài khóa cho những giai đoạn khó khăn hơn. Để tăng hiệu quả điều hành chính sách tài khóa thì cần nâng cao tính “chủ động” hơn, tức là phải có chiến lược phát triển kinh tế tổng thể cho cả giai đoạn, với nhiệm vụ đề ra cụ thể cho từng giai đoạn, rồi từ đó chia ra thành những tiểu giai đoạn để Chính phủ có thể kiểm tra, đánh giá tiến độ và tình hình thực hiện đồng thời có sự điều chỉnh linh hoạt cho phù hợp với bối cảnh biến động của kinh tế thế giới và trong nước. Trong thời gian qua, Việt Nam đã có những động thái chuyển hoạt động điều hành ngân sách dần từ thông lệ điều hành hàng năm sang trung hạn. Tiêu biểu như lập kế hoạch đầu tư công trung hạn (Luật Đầu tư công 2014 và tiếp tục được duy trì trong Luật Đầu tư công sửa đổi 2019), lập kế hoạch tài chính 5 năm và kế hoạch tài chính-NSNN 3 năm (Luật NSNN 2015), kế hoạch vay và trả nợ công 3 năm (Luật quản lý nợ công). Trên cơ sở thành công của việc thực hiện kế hoạch tài chính 5 năm lần thứ nhất (2016-2020), Việt Nam đã xây dựng kế hoạch tài chính 5 năm lần thứ hai (2021- 2030) với hạn mức thu và chi ngân sách cụ thể: “Tỷ lệ huy động vào NSNN không thấp hơn 16%GDP, trong đó thuế, phí, lệ phí khoảng 13%- 14%GDP; tỷ trọng thu nội địa bình quân khoảng 85%-86% tổng thu NSNN… Tổng chi


NSNN cả giai đoạn 2021 - 2025 khoảng 10,26 triệu tỷ VND, trong đó, tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển chiếm bình quân khoảng 28%tổng chi NSNN; giảm tỷ trọng chi thường xuyên xuống còn 62%-63% tổng chi NSNN, tỷ lệ bội chi bình quân 3,7% GDP; trần nợ công hằng năm không quá 60% GDP; trần nợ Chính phủ hằng năm không quá 50% GDP; trần nợ nước ngoài của quốc gia hằng năm không quá 50% GDP.” Đây là quan điểm tiến bộ và đúng đắn trong thực hiện chính sách tài khoá vì chỉ khi có hạn mức rò ràng thì kỷ luật về tài khóa sẽ được tuân thủ và tình trạng bội chi có cơ sở để đạt được những chuyển biến tích cực.Trong thời gian tới, Chính phủ cần nâng cao hơn nữa tính kỷ luật của việc thực thi những thông lệ này vì hiện nay, ở nhiều đơn vị dự toán cấp 1, việc thực hiện vẫn mang nặng tính hình thức do chưa mang tính bắt buộc (như Kế hoạch 3 năm).

- Tăng cường tính minh bạch của thông tin tài chính như số liệu thu, chi, tình hình nợ công để người dân nâng cao vai trò giám sát tính trung thực, đúng đắn của hoạt động tài chính Nhà nước.

- Cải tiến thủ tục hành chính, tích cực sử dụng công nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục hành chính về thuế để giảm thời gian cho doanh nghiệp,, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tài chính quốc gia, Chính phủ điện tử.Thêm vào đó, , hạn chế tiếp xúc trực tiếp với cán bộ ngành thuế cũng sẽ là giải pháp làm giảm tham nhũng ở khâu thu thuế, tăng niềm tin cho nhà đầu tư.

- Kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu nợ công trong giới hạn do Quốc hội đề ra, hạn chế tối đa cấp bảo lãnh Chính phủ cho các khoản vay mới, trên cơ sở kiểm soát chặt chẽ mục đích chi tiêu và nợ của các địa phương. Để thực hiện chính sách này, địa phương cần được giao quyền tự chủ ở mức cao hơn hiện nay trong việc ra quyết định chi tiêu, tăng trách nhiệm giải trình về tính hiệu quả và hiệu lực các khoản chi của mình. Bộ tài chính bố trí nguồn bảo đảm trả nợ đầy đủ, đúng hạn và thực hiện nghiêm kỷ luật tài chính trong thu, chi NSNN, cần tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc“không dùng nợ vay tài trợ cho chi thường xuyên” nhằm đảm bảo khả năng trả nợ trong tương lai. Để tài trợ thâm hụt, Chính phủ nên ưu tiên vay trong nước trên cơ sở kết hợp với chính sách tiền tệ vì qua nghiên cứu ở chương 3 cho thấy, trong giai đoạn 2005-2017, THNS không gây nên hiện tượng lấn át đầu tư do đã có sự phối hợp hiệu quả với chính sách tiền tệ. Mặt khác do hiện nay, Việt Nam không còn thuộc diện được hưởng ưu đãi nên khi vay quốc tế chi phí đi vay là đắt đỏ hơn, rất dễ làm trầm trọng thêm khả năng trả nợ nhất là trả bằng ngoại tệ. Thêm vào đó vay nước ngoài tiềm ẩn khá nhiều rủi ro như tình trạng đô la hóa hay khả năng rơi vào “bẫy nợ” của nước cho vay như Trung Quốc đã và đang thực hiện với nhiều nước trên thế giới. Chính phủ cần tiếp tục phối hợp với NHNN để quản lý ngoại hối chặt chẽ, đầu tư có trọng điểm và cân nhắc đối với nguồn vay nước ngoài.


- Tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm toán để chống thất thu, ngăn chặn các hành vi gian lận thương mại, chuyển giá, trốn thuế đặc biệt là ở khu vực doanh nghiệp FDI. Để thực hiện thành công, một mặt cần nâng cao trình độ của đội ngũ ngành thuế, mặt khác cần sửa đổi luật thuế cho phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tăng tính chặt chẽ và hiệu quả kinh tế, đây cũng là cơ sở để ngành thuế Việt Nam nâng cao khả năng hội nhập trong thời gian tới.

- Cũng cần lưu ý là trong dài hạn, Việt Nam không nên cố gắng đạt bội thu ngân sách bằng mọi giá vì nghiên cứu này cho thấy nếu giữ bội chi ở mức hợp lý vẫn có thể làm cải thiện THTM. Tuy nhiên, ngưỡng thâm hụt hợp lý cần được tính lại trong giai đoạn mới để phù hợp với những cơ hội, thách thức và mục tiêu kinh tế mới, không làm mất an toàn nợ công và gây bất ổn vĩ mô.

b. Nhóm giải pháp về thay đổi cơ cấu thu-chi

+ Đối với thu ngân sách: Để giảm sự phụ thuộc vào khu vực ngoại thương, nâng cao tính ổn định Ngân sách cần tiếp tục nâng tỷ trọng nguồn thu trong nước. Làm tốt được điều này thì không những ngân sách sẽ bền vững hơn mà còn làm cho quan hệ giữa THNS và THTM đang là nghịch biến sẽ trở thành quan hệ đồng biến và như vậy thì sẽ có khả năng cả hai cán cân sẽ được cải thiện đồng thời (thay vì chỉ cải thiện được một là THNS hoặc THTM như trong ngắn hạn). Để tăng thu trong nước, tăng thuế suất không phải là một giải pháp nên làm đối với Việt Nam hiện nay. Theo Mankiw (2014), nhà kinh tế học Arthur Laffer cho rằng tăng thuế suất chỉ có giới hạn, nếu thuế cao quá mức tối ưu sẽ khiến số thu suy giảm. Thực trạng cho thấy việc tăng thuế suất trong nước hiện nay là khá khó khăn cho Việt Nam vì theo đánh giá của quỹ Heritage, tại năm 2017 gánh nặng thuế bình quân ở Việt Nam đã đạt ngưỡng 17%, cao hơn nhiều nước có mức thu nhập tương tự thậm chí còn cao hơn nhiều nước có thu nhập cao hơn trong khu vực (Singapore 13,6%, Indonesia 10,4%, Malaysia 13,8%, Thailand 15,7%, Philippin 13,7%). Vì vậy, thay vì nâng thuế suất, Chính phủ cần tập trung vào việc thu đủ, thu đúng, mở rộng diện chịu thuế. Bộ tài chính cần rà soát lại loại hình doanh nghiệp thuộc diện cắt giảm, ưu đãi thuế để mở rộng diện chịu thuế một cách hợp lý và nâng cao khả năng thu triệt để hơn. Chẳng hạn như khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh và khu vực có vốn FDI, đây là những khu vực còn tồn tại thất thu nhiều do hoạt động gian lận và chuyển giá nên cần duy trì các biện pháp quản lý chặt. Một giải pháp nữa là nâng cao thuế suất một số loại thuế như thuế tài nguyên, môi trường vừa có nguồn thu lại góp phần bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường. Chính phủ cũng cần nghiên cứu, ban hành thêm một số loại thuế, chẳng hạn như thuế tài sản vì loại thuế này vừa mang lại nguồn thu cho ngân sách, vừa mang lại sự công bằng trong phân phối thu nhập.


+ Đối với chi ngân sách: Việc điều chỉnh cơ cấu chi trong bối cảnh hiện nay là hết sức quan trọng và có ý nghĩa thiết thực để cải thiện tình hình bội chi. Kế hoạch tài chính 5 năm lần thứ nhất và lần thứ hai đều nhấn mạnh nội dung phải giảm tỷ trọng chi thường xuyên xuống dưới 64% song thực tế vẫn chưa đạt được mục tiêu này. Do đó, trong thời gian tới Chính phủ cần rà soát và tiếp tục cắt giảm quy mô cồng kềnh của bộ máy Nhà nước để tránh lãng phí. Đây cũng là nhận định của Đào Thị Thanh Bình và Bùi Tâm (2016) khi nhóm nghiên cứu này phát hiện thấy những khoản chi không phải là chi đầu tư thì không tạo nên tác động tích cực cho tăng trưởng tại Việt Nam. Cần nâng cao hơn nữa hiệu quả của chi tiêu công thông qua việc tăng cường kỷ luật chi tiêu. Một trong những điểm nghẽn hiện nay mà Chính phủ đang rất nỗ lực nhưng chưa khắc phục được triệt để đó là chậm giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Chính phủ cần kiên quyết hơn trong việc tìm và xử lý nghiêm những nguyên nhân của tình trạng này, có biện pháp thu hồi những khoản đầu tư kém hiệu quả, nợ đọng trong xây dựng cơ bản. Chi đầu tư phát triển phải được phân bổ tập trung, sử dụng hiệu quả, ưu tiên đầu tư kết cấu hạ tầng trọng điểm của đất nước, tránh đầu tư dàn trải. Chuyển các dịch vụ công không cần sự can thiệp của Nhà nước sang cho các thành phần kinh tế khác thực hiện nhằm giảm áp lực chi tiêu.

+ Đối với chính sách thương mại

a. Giải pháp về chính sách:

Nghiên cứu này cho thấy trong dài hạn, tăng trưởng của nền kinh tế không đóng góp trực tiếp cho khả năng cải thiện cán cân thương mại. Điều này là do nền kinh tế mang nặng tính chất “gia công”, xuất khẩu phụ thuộc nặng nề vào nguyên vật liệu, máy móc, linh kiện nhập khẩu, giá trị xuất khẩu phần lớn là do khối doanh nghiệp có vốn FDI tạo ra song khu vực này tạo được sự lan tỏa rất yếu cả về chiều ngang lẫn chiều dọc với khối doanh nghiệp nội địa... Để giải quyết tình trạng này, Việt Nam cần đẩy nhanh quá trình phát triển nền công nghiệp hỗ trợ để giảm dần mức phụ thuộc của xuất khẩu vào nhập khẩu, chuyển dần từ nền kinh tế gia công sang nền kinh tế chế biến và dịch vụ nhằm tăng phần giá trị gia tăng của nền kinh tế. Điều này đã được các nhà hoạch định chính sách Việt Nam phản ánh rò trong Nghị quyết số 85/2019/QH14 của Quốc hội: “Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020” song tiến độ thực hiện còn rất chậm.

Để gia tăng sức cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu, Việt Nam không thể dựa vào công cụ tỷ giá. Nghiên cứu cho thấy việc phá giá Việt Nam đồng hay điều chỉnh tăng giá đồng nội tệ là không khả thi trong việc cải thiện tình hình THTM trong dài


hạn vì kết quả thực nghiệm cho thấy tác động của tỷ giá lên cán cân thương mại là không có ý nghĩa thống kê. Phát hiện này cũng tương đồng với quan điểm của “Báo cáo năm 2018” do Đại học Kinh tế quốc dân thực hiện khi cho rằng tỷ giá chỉ có tác động rất yếu trong việc kích thích tổng cầu tại Việt Nam. Để cạnh tranh hiệu quả, Việt Nam cần dựa vào các yếu tố cạnh tranh phi giá cả như chất lượng sản phẩm, minh bạch thông tin, uy tín trong kinh doanh, giá trị thương hiệu và hiện đại hóa công tác hậu cần (logistic). Để làm tốt các chính sách này, về lâu dài, Việt Nam cần tập trung gia tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước thông qua chính sách đầu tư theo chiều sâu như khuyến khích nghiên cứu và triển khai, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tập trung vào những mặt hàng xuất khẩu có hàm lượng chất xám cao... Trong lĩnh vực sản xuất để xuất khẩu cần chú trọng hơn nữa công tác đào tạo nguồn lao động chất lượng cao, tận dụng được ảnh hưởng tích cực từ nguồn vốn FDI... Các doanh nghiệp nội cần chủ động tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu để khai thác lợi thế so sánh vì thực tế cho thấy, mức độ tham gia hiện tại của khối này còn thấp so với tiềm năng (theo số liệu do GSO công bố thì năm 2020, doanh nghiệp nội địa chỉ tạo ra 1/3 giá trị GDP). Bên cạnh đó, Việt Nam cần đa dạng hóa hơn về thị trường xuất khẩu, nhập khẩu để tránh tình trạng rủi ro do phải lệ thuộc vào một số nền kinh tế và khu vực lớn như hiện nay. Chính phủ cần hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu quốc gia, hỗ trợ doanh nghiệp xúc tiến thương mại hiệu quả. Từ tháng 8/2020, hiệp định thương mại EVFTA đã bắt đầu có hiệu lực giúp Việt Nam mở rộng thị trường song cũng làm gia tăng áp lực cần thay đổi chính sách về thương mại toàn diện để có thể đáp ứng những yêu cầu khắt khe khi tham gia “sân chơi” lớn này. Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều bất ổn như: chiến tranh thương mại Mỹ - Trung diễn ra gay gắt chưa biết đến bao giờ kết thúc, một số nước lớn như Mỹ, Nhật và khu vực EU quay trở lại chế độ bảo hộ cho nền sản xuất và người tiêu dùng trong nước, thảm họa về dịch bệnh Covid-19 bùng phát làm đứt gãy chuỗi sản xuất toàn cầu... thì thương mại thế giới trong thời gian tới chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn. Do vậy chính sách thương mại của Việt Nam phải được xây dựng trên tinh thần hội nhập, phù hợp với thông lệ quốc tế song vẫn phải mang tính chủ động, linh hoạt để ứng phó với những diễn biến bất ngờ của những thay đổi trong môi trường quốc tế.

- Một lưu ý nữa cho các nhà hoạch định chính sách mà tác giả rút ra được từ nghiên cứu này đó là trong dài hạn, không nhất thiết cán cân thương mại phải đạt được tình trạng xuất siêu bằng mọi giá vì thực nghiệm cho thấy việc duy trì THTM cũng có tác động tích cực đến giảm mức độ THNS. Tuy nhiên mức nhập siêu cũng cần phải được tính toán lại sao cho phù hợp với bối cảnh mới của khó khăn cũng như cơ hội của kinh


tế Việt Nam trong bối cảnh mới, để tránh làm trầm trọng thâm hụt của cán cân vãng lai, gây áp lực cho cán cân thanh toán.

b. Nhóm giải pháp về cơ cấu:

+ Đối với xuất khẩu: tiếp tục chuyển dịch cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hạn chế xuất khẩu dưới dạng thô và sơ chế, đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm chế biến có hàm lượng chất xám cao.

+ Đối với nhập khẩu: Hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng, hạn chế nhập khẩu những nguyên vật liệu trong nước đã sản xuất được. Chủ động điều chỉnh nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa, kiểm soát chặt việc nhập khẩu các mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu, góp phần giảm nhập siêu trong dài hạn. Đáp ứng yêu cầu nhập khẩu nhóm hàng máy móc thiết bị và công nghệ cao phù hợp với nguồn lực, trình độ sản xuất trong nước và tiết kiệm năng lượng, vật tư; đảm bảo đầu vào cho những ngành sản xuất mà Việt Nam có lợi thế so sánh như nông nghiệp, dịch vụ; định hướng nhập khẩu ổn định cho các ngành sản xuất sử dụng các nguyên, nhiên, vật liệu mà khai thác, sản xuất trong nước kém hiệu quả hoặc có tác động xấu đến môi trường.

Xem tất cả 257 trang.

Ngày đăng: 07/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí