Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam - 2


1.1.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế:

* Các nguồn lực kinh tế

Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển và các nước phát triển, các nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực phát triển kinh tế phải đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng trưởng kinh tế là vốn(tư bản), nguồn tài nguyên, công nghệ và nhân lực. Bốn nhân tố này khác nhau ở các quốc gia và cách kết hợp chúng cũng khác nhau đưa đến những kết quả tương ứng.

- Vốn (tư bản):

Vốn được hiểu là một bộ phận tài sản được sử dụng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Vốn thường tồn tại dưới hai dạng: Vốn tài chính và vốn vật chất. Vốn tài chính là vốn tồn tại dưới hình thức tiền tệ hay các loại chứng khoán còn vốn vật chất là vốn tồn tại dưới dạng nhà xưởng, máy móc thiết bị...tham gia vào quá trình sản xuất. Vốn tài chính và vốn vật chất có mối quan hệ gắn bó với nhau và không ngừng chuyển hoá cho nhau.

Đây là là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ vốn mà người lao động được sử dụng máy móc, thiết bị ... nhiều hay ít (tỷ lệ vốn trên một đơn vị lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được vốn phải thực hiện đầu tư, điều này rất quan trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có có tỷ lệ đầu tư lớn tính trên tổng GDP thường tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Tuy nhiên, vốn không chỉ là máy móc, thiết bị do tư nhân đầu tư cho sản xuất mà nó cũng là tư bản cố định xã hội, những thứ tạo tiền đề cho cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã hội thường là những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và có lợi suất tăng dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất (đường giao thông, mạng lưới điện quốc gia...), thủy lợi...

Vốn đầu tư chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển. Đầu tư ở Trung Quốc tăng từ 30,2% những năm 70 lên 35,7% những năm 80,tỷ lệ tăng trưởng tăng lên tương ứng từ 5,9% lên 9,0%.

Ngược lại đầu tư của Đài Loan giảm từ 29,6% xuống 23,7% khiến tỷ lệ tăng trưởng giảm từ 10% xuống 8%.

- Tài nguyên thiên nhiên: Là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển. Những tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, tài nguyên trong lòng đất, rừng và nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên đóng vai trò quan trọng để phát triển kinh tế. Trước đây, tài nguyên là nhân tố quan trọng nhất của quá trình tăng trưởng. Đặc biệt là tài nguyên đất đai trong nền kinh tế nông nghiệp. Ricardo đã từng cho rằng đất đai là giới hạn của tăng trưởng kinh tế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.

Trong giai đoạn hiện nay, nguồn tài nguyên bị khai thác và sử dụng ồ ạt nên ngày càng cạn kiệt, nhất là các loại tài nguyên không có khả năng tái sinh. Các nhà kinh tế học đã chỉ ra vấn đề này qua việc phát hiện ra quy luật về sự khan hiếm của tài nguyên. Ngay cả tài nguyên trước đây được coi là vô tận như nước, cũng đang trở nên suy giảm bởi sự sử dụng và khai thác bừa bãi của con người. Vì vậy, vấn đề hàng đầu hiện nay của toàn cầu là việc sử dụng các nguồn tài nguyên thế nào cho hợp lý. Công nghệ tiết kiệm tài nguyên và không làm tổn hại môi trường đã được sử dụng rộng rãi ở các nước tiên tiến. Tuy nhiên, ở các nước kém phát triển, do sự lạc hậu và yếu kém về kinh tế, vấn đề khai thác và sử dụng tài nguyên vẫn chưa được quan tâm một cách hợp lý.

- Khoa học - công nghệ: Tiến bộ công nghệ là nhân tố giữ vị trí quan trọng đối với quá trình tăng trưởng. Sự phát triển của kĩ thuật - công nghệ là một trong các nhân tố chính tạo nên những đặc điểm của tăng trưởng kinh tế hiện đại. Tiến bộ công nghệ dẫn đến việc dịch chuyển đường giới hạn khả năng sản xuất ra phía ngoài, sản lượng tăng, thúc đẩy kinh tế phát triển, khoa học và công nghệ giúp cho cùng một lượng lao động và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình sản xuất hiệu quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày nay công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới… có những bước tiến như vũ bão góp phần tăng hiệu quả sản xuất.

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam - 2

- Tài nguyên con người: Ngày nay, lực lượng lao động và vấn đề con người được coi là nhân tố quan trọng nhất của quá trình tăng trưởng. Hầu hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua hoặc vay

mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Chính vì vậy vấn đề mà tất cả các quốc gia quan tâm hiện nay là vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

* Vai trò của chính phủ đối với sự tăng trưởng kinh tế

Nhà nước cũng là một nhân tố đặc biệt có ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng trưởng cũng như phát triển kinh tế của một quốc gia. Cho đến nay, mặc dù có rất nhiều dạng kinh tế thị trường khác nhau, nhưng trên thực tế, chưa bao giờ tồn tại dạng kinh tế thị trường không có nhà nước, thoát ly khỏi nhà nước, mặc dù về tư tưởng và lý luận, những người theo trường phái tự do cực đoan, hay theo phái vô chính phủ thường phủ nhận vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường.

Trong lịch sử các học thuyết kinh tế, tất cả các trường phái kinh tế lớn đều đề cập đến vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, từ trường phái Trọng nông đến các trào lưu kinh tế học hiện đại. Thị trường có các khuyết tật vốn có của nó và vì thế điều tiết của nhà nước là tất yếu khách quan nhằm đảm bảo sự ổn định, công bằng và hiệu quả của nền kinh tế.

Trong báo cáo về tình hình phát triển kinh tế thế giới, Ngân hàng thế giới (Wold Bank) đã kết luận rằng: “Nhà nước đóng vai trò trung tâm trong phát triển kinh tế và xã hội; không phải với tư cách một người trực tiếp tạo ra sự tăng trưởng; mà là một đối tác, là chất xúc tác và là người tạo điều kiện cho sự tăng trưởng đó”.

* Đặc điểm dân tộc, tôn giáo, văn hóa của quốc gia

- Đặc điểm dân tộc: các dân tộc sống chung trong một cộng đồng quốc gia thường luôn có những đặc điểm khác nhau về văn hóa, kinh tế, tập quán sống và sản xuất. Nếu tăng trưởng kinh tế đem lại lợi ích cho dân tộc này thì gây tổn hại lợi ích cho dân tộc khác mà cũng sẽ là lực cản cho sự tăng trưởng và phát triển, sẽ khó tránh khỏi những xung đột về sắc tộc

- Đặc điểm tôn giáo: Trong mỗi một quốc gia thường có nhiều tôn giáo. Các tôn giáo thường có quan niệm, triết lý, tư tưởng riêng khó thay đổi. Các thiên kiến tôn giáo thường tạo ra tâm lý xã hội biệt lập của tôn giáo mình. Nếu các

chính sách đúng đắn thì có thể tạo ra sự hòa hợp giữa các tôn giáo, đây sẽ là nhân tố tích cực tác động tới sự tăng trưởng và phát triển

- Đặc điểm văn hóa: Văn hóa dân tộc là phạm trù rộng lớn bao trùm nhiều mặt, từ tri thức phổ thông, khoa học, văn hóa, nghệ thuật đến lối sống, tập quán, cách ứng xử và nó được hình thành và tích lũy trong suốt quá trình phát triển của dân tộc, đồng thời cũng gắn với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Có thể nói trình độ văn hóa của một dân tộc là nhân tố cơ bản tạo ra chất lượng một đội ngũ lao động, nhân tố quyết định ảnh hưởng tới chất lượng đội ngũ lao động.

* Quan hệ kinh tế quốc tế

Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế là một đặc trưng của quá trình tăng trưởng hiện đại, đồng thời cũng là nhân tố thúc đẩy sự tăng trưởng đó. Ngày nay, các quan hệ kinh tế quốc tế không chỉ dừng lại ở phạm vi liên quốc gia hay khu vực mà mang tính toàn cầu. Các khối liên kết khu vực được hình thành và ngày càng mở rộng như Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức mậu dịch tự do Bắc Mỹ(NAFTA), Khối liên hợp chung châu Âu (EU)… Bên cạnh đó, các tổ chức kinh tế mang tính toàn cầu cũng phát triển mạnh và ngày càng giữ vai trò chi phối nền kinh tế quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức thương mại thế giới (WTO)… Sự lan nhanh và sâu rộng của tính toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới làm cho nền kinh tế các quốc gia chịu tác động mạnh mẽ từ bên ngoài cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực. Các quốc gia có thể phát huy lợi thế so sánh của mình cũng như có khả năng tận dụng lợi thế nhờ quy mô trong hoạt động ngoại thương, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế là một cơ hội để các quốc gia đang phát triển khắc phục được yếu kém và lạc hậu về kinh tế; thu hút các nguồn vốn đầu tư, viện trợ nước ngoài, tạo ra nguồn lực lớn cho quá trình tăng trưởng; từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.

Tuy nhiên, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế làm cho cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt và phức tạp, đồng thời nó làm cho các nền kinh tế của các nước kém phát triển phụ thuộc quá nhiều vào thị trường và nguồn đầu tư nước ngoài.

1.1.1.3 Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm quốc nội, tổng sản phẩm quốc dân, tổng sản phẩm quốc dân thuần tuý

- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): Dưới dạng định nghĩa tổng quát, tổng sản phẩm quốc nội được hiểu là giá trị của toàn bộ hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất và cung ứng trên phạm vi một quốc gia hay lãnh thổ trong một thời gian xác định, thường là một năm. GDP phản ánh năng lực sản xuất hay thu nhập trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia mà không kể đến quyền sở hữu các thu nhập và các nguồn lực sản xuất thuộc về ai.

GDP là một chỉ số kinh tế quan trọng, phản ánh quy mô hoạt động kinh tế của mỗi quốc gia. Để tính GDP thường có có ba cách tiếp cận cơ bản, tiếp cận từ sản xuất, tiêu dùng và phân phối.

- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): Hiểu theo nghĩa tổng quát, đó chính là toàn bộ giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng mà các công dân của một nước sản xuất và cung ứng trong một thời gian nhất định (thường là trong một năm) ở trong nước và ở nước ngoài.

GNP = GDP + thu nhập ròng từ nước ngoài

Như vậy, GNP cho thấy năng lực sản xuất hoặc mức thu nhập thực sự của các công dân của một quốc gia, bất kể dịch vụ yếu tố sản xuất được cung cấp ở nước nào.

- Tổng sản phẩm quốc dân thuần túy (NNP): Đó là phần giá trị còn lại của tổng sản phẩm quốc dân khi đã trừ đi giá trị khấu hao tài sản cố định.

Tổng sản phẩm quốc dân thuần túy hay còn được gọi là thu nhập quốc dân tính đến khối lượng tiền mà nền kinh tế có sẵn để chi tiêu cho hàng hoá và dịch vụ sau khi trừ ra một khoản tiền đủ để vốn của nó nguyên vẹn bằng cách tính khấu hao.

Thu nhập bình quân tính theo đầu người

Chỉ số thu nhập bình quân/ đầu người phản ánh mức sống và thu nhập của dân cư, được tính bằng GNP, GDP thực tế chia cho tổng số dân của một quốc gia.

Chỉ số này cung cấp những căn cứ để có thể có được những kết luận tin cậy hơn về số lượng hàng hoá và dich vụ trung bình mà mỗi cá nhân được hưởng. Tuy nhiên, cũng như các chỉ số trên, chỉ số thu nhập bình quân mới là thước đo “trung bình” không phản ánh được phúc lợi xã hội. Các hàng hoá và dịch vụ mà mỗi cá nhân được hưởng phụ thuộc vào việc phân phối thu nhập trong nền kinh tế.

1.1.2. Công bằng xã hội

1.1.2.1 Quan niệm về công bằng xã hội

Công bằng xã hội (Social Justice) và bình đẳng xã hội (Social Equality) là hai khái niệm rất gần giống nhau, nhưng là hai khái niệm khác nhau. Nói tới công bằng xã hội là nói tới sự ngang bằng nhau giữa các thành viên trong xã hội về một phương diện nào đấy hoàn toàn xác định, thường là quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ, gắn liền với quan hệ phân phối của cải làm ra của xã hội nhiều hơn. Nói tới bình đẳng xã hội, là nói tới sự ngang bằng nhau giữa các thành viên trong xã hội về mọi phương diện, thường gắn liền với địa vị xã hội của những lớp người. Công bằng xã hội là một nội dung cụ thể của bình đẳng xã hội. Thực hiện công bằng xã hội là thực hiện một phần nội dung của bình đẳng xã hội, là một bước tiến trong quá trình thực hiện bình đẳng xã hội hoàn toàn. Công bằng xã hội là một phạm trù chính trị - xã hội thể hiện mối quan hệ giữa các thành viên trong xã hội dựa trên nguyên tắc thống nhất ngang bằng giữa cống hiến và hưởng thụ.

Trong lịch sử nhân loại, quan niệm về công bằng xã hội biến đổi liên tục, đôi khi giữa công bằng xã hội và bình đẳng xã hội được đồng nhất làm một.

Thời kỳ cổ đại, quan niệm về công bằng xã hội cũng trải qua những tiến triển nhất định. Các nhà triết học cổ đại giải thích công bằng là một cái cần thiết, tất yếu, phát sinh từ sự sắp xếp của vũ trụ, của trật tự tự nhiên (Héraclite), còn bất công là chống lại tự nhiên (Démocrite). Socrate cho rằng, công bằng có tính khách quan và khó đạt được đại đa số người. Đến Platon, thì phạm trù công bằng xã hội được xác định hoàn toàn có tính giai cấp. Aristote là người đầu tiên xem

xét tính công bằng như một hình thái đặc biệt có bản chất xã hội. Ở La Mã, do luật pháp phát triển, phạm trù công bằng thiên về khía cạnh pháp luật là chủ yếu.

Các nhà khai sáng thế kỷ 17-18 quan niệm về công bằng trên cơ sở phải thừa nhận quyền tự do cá nhân, bác bỏ hệ thống đẳng cấp phong kiến. Kant xuất phát từ khái niệm tự do, nhưng lại gắn chặt với công thức trừu tượng và mệnh lệnh. Hegel coi công bằng là hạt nhân của toàn bộ triết học pháp quyền. Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789 là đỉnh cao những tư tưởng chính trị - xã hội và triết học tư sản về vấn đề công bằng, đặt ra việc thiết lập những quyền tự nhiên và không thể tước đoạt của con người.

Quan điểm của Chủ nghĩa Mác về công bằng và bình đẳng xã hội được trình bày rò trong tác phẩm "Phê phán cương lĩnh Gotha". Sự công bằng trong Chủ nghĩa xã hội được thực hiện thông qua phân phối theo lao động: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, ai không làm không hưởng. Nó là nguyên tắc ngang nhau giữa cống hiến và hưởng thụ. Song, sự bất bình đẳng hoàn toàn vẫn chưa được loại trừ, vẫn còn có kẻ giàu, người nghèo, kẻ lĩnh ít, người lĩnh nhiều, phải đến Chủ nghĩa Cộng sản mới có thể thanh toán được. Bình đẳng xã hội sẽ được thực hiện trên cơ sở mở rộng dần những điều kiện và lĩnh vực để thực hiện công bằng xã hội.

Tiếp thu và phát triển quan điểm của Chủ nghĩa Mác, các học giả thuộc các nước XHCN đã đưa vấn đề công bằng xã hội trở thành mục tiêu của xã hội XHCN và là một phạm trù cơ bản của đạo đức học Mác - Lênin. Công bằng xã hội được giải quyết chủ yếu thông qua quan hệ phân phối theo nguyên tắc phân phối theo lao động, dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các cương lĩnh hành động của các Đảng Cộng sản và công nhân cầm quyền chỉ đạo chính quyền các nước XHCN thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động khi định chế độ tiền lương và phân phối thu nhập cho các thành viên trong xã hội. Song, thực tế ở các nước XHCN theo mô hình Xô - viết cho thấy khó khăn lớn vấp phải trong quá trình thực hiện là không thể đánh giá được chính xác mức độ đóng góp của từng thành viên vào "Quỹ tiêu dùng xã hội chung", không tìm được một thước đo chung đánh giá chính xác mức độ về thời gian, năng suất và hiệu

quả lao động của từng cá nhân, để từ đó xác định đúng đắn mức độ hưởng thụ tương xứng. Rốt cuộc, nguyên tắc phân phối công bằng trên thực tế đã bị vi phạm, các yếu tố khuyến khích lợi ích bị thui chột, tài sản công cộng trở thành vô chủ, sử dụng lãng phí, tài nguyên bị tàn phá nặng nề, môi trường sống bị huỷ hoại nghiêm trọng, động lực phát triển bị đình trệ.

Trong những năm gần đây, nhiều học giả phương Tây đề cập nhiều đến mối quan hệ giữa phát triển và công bằng xã hội. Công bằng xã hội được xem xét thông qua mối quan hệ chủ yếu giữa "giàu" và "nghèo". Giàu và nghèo là hai thái cực đánh giá nấc thang phát triển kinh tế của một quốc gia, mức sống của các tầng lớp dân cư. Khoảng cách giữa giàu và nghèo càng lớn thì mức độ công bằng xã hội càng thấp và ngược lại. Bởi vậy, thực hiện công bằng xã hội là thực hiện một quá trình rút ngắn mức độ chênh lệch, giảm bớt độ lớn về khoảng cách giữa nước giàu và nước nghèo, giữa người giàu và người nghèo. Ở đây khái niệm công bằng xã hội cũng phản ánh chủ yếu thông qua phân phối thu nhập, song họ đã gắn chặt với điều kiện và cơ chế rút ngắn khoảng cách giữa giàu và nghèo, là làm tăng trình độ phát triển kinh tế của nước nghèo, là nâng cao mức sống của người nghèo.

Nhìn chung, khác với khái niệm tăng trưởng kinh tế là cái có thể xác định bằng những con số, công bằng xã hội mang tính chuẩn tắc, nghĩa là tùy thuộc vào quan điểm của con người. Theo nghĩa rộng, công bằng xã hội là công bằng về các quyền của con người và về điều kiện thực hiện các quyền đó của các cá nhân - con người ( hay rộng hơn, của các chủ thể xã hội).

Trong kinh tế học người ta chia công bằng xã hội thành hai dạng là công bằng theo chiều dọc và công công bằng theo chiều ngang. Công bằng theo chiều ngang có nghĩa là đối xử như nhau đối với những người có đóng góp như nhau và công bằng theo chiều dọc là nghĩa là đối xử khác nhau đối với những người có khác biệt bẩm sinh hoặc có các điều kiện xã hội khác nhau. Nếu như công bằng theo chiều ngang được thực hiện bởi cơ chế thị trường thì công bằng theo chiều dọc cần có sự điều tiết của chính phủ. Việc nhận định và kết hợp công bằng theo chiều dọc và theo chiều ngang sẽ đảm bảo công bằng thực sự. Như vậy, công

Xem tất cả 144 trang.

Ngày đăng: 24/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí