Nền kinh tế thị trường mà chúng ta tiến hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do đó kinh tế nhà nước phải là đóng vai trò chủ đạo, lôi cuốn, điều tiết các thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện tăng trưởng kinh tế cùng với giải quyết các vấn đề xã hội khác theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa chứ không theo hướng tư bản chủ nghĩa. Kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo mới giúp nhà nước có thực lực vật chất, có công cụ vật chất để thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo giải quyết được những vấn đề xã hội, đảm bảo tốt hơn công bằng trong xã hội. Kinh tế Nhà nước sẽ đem lại nguồn vốn lớn, quan trọng để Nhà nước có thể đầu tư cho y tế, giáo dục, chăm sóc các đối tượng chính sách, hỗ trợ vùng núi, nông thôn… điều tiết, tạo cơ hội ngang nhau cho các đối tượng trong xã hội có thể làm theo năng lực và hưởng theo lao động, theo đóng góp, cống hiến của họ… Vì vậy, phát triển kinh tế thị trường theo mục tiêu gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội đòi hỏi phải nâng cao năng lực cạnh tranh của thành phần kinh tế Nhà nước, đảm bảo nó có thể giữ vững vai trò chủ đạo, điều tiết các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một việc không phải dễ vì thực tế nước ta hiện nay, số doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ còn nhiều. Chúng ta cũng không thể vì muốn kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo mà tìm mọi cách "bao bọc" nó, hạn chế sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, làm như vậy không những kinh tế không thể phát triển mà thậm chí còn đi xuống. Cần phải công bằng trong cạnh tranh lành mạnh, làm cho kinh tế nhà nước mạnh thực sự, tự vươn lên giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế khác. Muốn vậy, chúng ta phải tiến hành đổi mới, đầu tư phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị, máy móc… hiện đại, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành trong các doanh nghiệp Nhà nước đảm bảo có đủ kiến thức, năng lực, trình độ tiếp cận với khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của thời đại, nhạy bén, sáng tạo trong quản lý sản xuất, phát triển kinh doanh, nâng cao trình độ cho người lao động, tạo điều kiện cho họ học tập, tiếp cận những tri thức mới áp dụng vào sản xuất nâng cao tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo…
Nhưng bên cạnh đó cần phải khuyến kích các thành phần kinh tế khác: kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển. Vì phát triển các thành phần kinh tế này cũng có nghĩa là giải phóng sức sản xuất và tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế trong xã hội đều có quyền tham gia vào quá trình sản xuất xã hội, tham gia vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội.
Thứ hai, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội phải thực hiện tốt nguyên tắc phân phối mà đại hội Đảng đã đề ra, khắc phục triệt để cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp và chế độ phân phối bình quân, cào bằng, xoá bỏ cơ chế xin - cho. Thực tế cho thấy, việc kéo dài quá thời gian cần thiết thể chế kinh tế ấy đã kìm hãm sức sống của nền kinh tế, dù vậy đến hiện nay dấu ấn của nó vẫn còn tồn tại làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế, là nguyên nhân của nhiều hiện tượng tiêu cực, bất công phi lý cần phải loại bỏ.
Thứ ba, Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, trong đó có thị trường hàng hóa dịch vụ và thị trường các yếu tố đầu vào (thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường sức lao động, thị trường khoa học – công nghệ). Sự phát triển đồng bộ và quản lý hiệu quả các loại thị trường là giải pháp hữu hiệu để phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn nhân lực của tăng trưởng kinh tế, đồng thời giải quyết hài hòa hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
3.3.3 Hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế và hệ thống chính sách xã hội.
3.3.3.1 Hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế
Cần hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế để đảm bảo rằng trongmỗi chính sách kinh tế đều hàm chứa việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội. Có thể kể đến một số chính sách kinh tế cơ bản sau:
- Chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn:
Chúng ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Phải phát triển toàn diện nông nghiệp, chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương. Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn và thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới; xây dựng các làng, xã, thôn, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh; hình thành các khu dân cư đô thị hoá với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ. Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hoá, nâng cao trình độ dân trí; chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỉ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ.
- Chính sách tài chính - tiền tệ:
Có thể bạn quan tâm!
- Chỉ Số Nhận Thức Tham Nhũng (Cpi) Của Việt Nam Qua Các Năm
- Bối Cảnh Mới Và Tác Động Của Nó Đến Việc Giải Quyết Mối Quan Hệ Giữa Tăng Trưởng Kinh Tế Và Công Bằng Xã Hội Ở Việt Nam
- Quan Điểm Giải Quyết Mối Quan Hệ Giữa Tăng Trưởng Kinh Tế Và Công Bằng Xã Hội Ở Việt Nam Trong Giai Đoạn Mới
- Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam - 17
- Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam - 18
Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.
Tích cực đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, động viên hợp lý và phân phối có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện nguyên tắc công bằng, hiệu quả trong chính sách phân phối và phân phối lại nguồn thu nhập trong xã hội. Tạo lập môi trường tài chính lành mạnh, thông thoáng nhằm giải phóng và phát triển các nguồn lực tài chính và tiềm năng sản xuất của các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư; bồi dưỡng và mở rộng nguồn thu ngân sách, thu hút các nguồn vốn bên ngoài; đa dạng hóa các công cụ và hình thức tổ chức tài chính, tiền tệ phi ngân hàng và các quỹ đầu tư nhằm động viên các nguồn lực cho phát triển kinh tế, xã hội. Kết hợp chặt chẽ kế hoạch hoá với các chính sách kinh tế, tài chính để định hướng và khuyến khích nhân dân, doanh nghiệp tiết kiệm đầu tư, kinh doanh.
Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính – tiền tệ nhằm giải quyết việc làm, giúp đỡ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; thúc đẩy xã hội hoá khu vực sự nghiệp, đồng thời bảo đảm cho người nghèo được hưởng các phúc lợi cơ bản.
Nhà nước giám sát, điều tiết tài chính doanh nghiệp thông qua chế độ kế toán, kiểm toán và hệ thống thuế, bảo hộ các nguồn thu nhập hợp pháp, khuyến khích tất cả các tầng lớp dân cư, các thành phần kinh tế tích cực đầu tư kinh doanh, làm giàu chính đáng.
Hình thành môi trường minh bạch, lành mạnh và bình đẳng cho hoạt động tiền tệ - ngân hàng. ứng dụng phổ biến công nghệ thông tin, mở rộng nhanh các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua ngân hàng. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, cho vay, cung ứng các dịch vụ và tiện ích ngân hàng thuận lợi và thông thoáng đến mọi doanh nghiệp và dân cư, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn tín dụng cho sản xuất, kinh doanh và đời sống, chú trọng khu vực nông nghiệp, nông thôn.
- Chính sách đầu tư
Đổi mới chính sách và cải thiện môi trường đầu tư, xoá bỏ các hình thức phân biệt đối xử trong tiếp cận các cơ hội đầu tư để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế trong nước và thu hút vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế để bảo đảm đầu tư của Nhà nước có hiệu quả, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tập trung cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học - công nghệ, y tế và trợ giúp vùng khó khăn. Vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước dành ưu tiên cho việc xây dựng các cơ sở thuộc kết cấu hạ tầng có thu hồi vốn và hỗ trợ đầu tư một số dự án quan trọng thiết yếu của nền kinh tế. Đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hướng vào nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hoá công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Vốn của khu vực dân doanh được khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và việc làm. Khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài chuyển vốn và công nghệ về nước tham gia đầu tư.
Tiếp tục tranh thủ nguồn vốn ODA. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn các công trình, dự án đã được ký kết; xây dựng Chiến lược thu hút và sử dụng vốn
ODA cho thời kỳ mới, tập trung vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở các trung tâm kinh tế và các vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn.
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp của nước ngoài, tạo lợi thế so sánh để thu hút nhiều doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới đầu tư cho sản phẩm xuất khẩu và công nghệ cao, tạo sự chuyển biến tích cực về chất lượng, số lượng và hiệu quả đầu tư nước ngoài.
Đơn giản hoá thủ tục cấp phép đầu tư đối với đầu tư nước ngoài; thu hẹp các lĩnh vực không cho phép đầu tư và những lĩnh vực đầu tư có điều kiện, mở rộng lĩnh vực đăng ký đầu tư. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển các lĩnh vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế.
- Chính sách kinh tế đối ngoại
Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương
Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế; giảm mạnh xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến và tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm; nâng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng trí tuệ hàm lượng công nghệ cao. Xây dựng các quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhất là đối với hàng nông sản. Khuyến khích sử dụng thiết bị, hàng hoá sản xuất trong nước. Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu. Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn, có thời hạn đối với sản phẩm sản xuất trong nước.
Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia các hoạt động môi giới, khai thác thị trường quốc tế.
3.3.3.2 Hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội
Con người là vấn đề trung tâm trong việc thực hiện mục tiêu kết hợp tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Hoàn thiện và thực thi chính sách xã hội trong điều kiện hiện nay chính là hoàn thiện và thực thi những chính sách nhằm
phát huy cao nhất nhân tố con người. Khi hoàn thiện và thực thi chính sách xã hội phải đảm bảo được những nội dung sau:
- Hoàn thiện và thực thi chính sách xã hội đảm bảo vừa đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế vừa đáp ứng công bằng xã hội, phải thoả mãn sự công bằng trong tái sản xuất (bao gồm cả tái sản xuất ra của cải vật chất và tái sản xuất ra con người). Nội dung của sự công bằng trong chính sách xã hội phải được thể hiện trên các lĩnh vực như: chính sách về gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, chính sách bảo hộ lao động, tổ chức nghỉ ngơi, giải trí cho các tầng lớp nhân dân, khắc phục tệ nạn xã hội và bảo đảm an toàn xã hội, chính sách về nhà ở, chính sách bảo vệ môi trường sinh thái (môi trường tự nhiên và cả môi trường xã hội), phát triển văn hoá, đảm bảo cho nhân dân được hưởng thụ văn hoá và giáo dục trên cơ sở bình đẳng, chính sách liên quan đến khoa học, nghệ thuật và hệ thống các dịch vụ phục vụ cho đời sống của con người.
- Chính sách xã hội để đảm bảo công bằng xã hội phải đạt đến sự công bằng trong giáo dục và đào tạo. Sự công bằng phải được thể hiện trong những chính sách liên quan đến việc nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dưỡng để tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, đào tạo về tay nghề và trình độ để đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội.
- Chính sách xã hội để đảm bảo công bằng xã hội phải đảm bảo được mục tiêu công bằng trong hưởng thụ. Sự công bằng phải được biểu hiện trong những chính sách tạo điều kiện cho xã hội ngày càng có nhiều khả năng và biết tiêu thụ những sản phẩm vật chất và tinh thần một cách đúng đắn, tiết kiệm, phù hợp với nhu cầu của xã hội.
Chính sách xã hội được ban hành nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội phải đạt được những mục tiêu cụ thể như sau:
- Chính sách xã hội đó sẽ tạo cho các tầng lớp nhân dân có cơ hội như nhau trong việc sử dụng các điều kiện sẵn có của xã hội để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, có điều kiện bình đẳng trong việc hưởng thụ các khoản phúc lợi của xã hội, hưởng thụ những giá trị văn hoá.
- Chính sách xã hội đó điều chỉnh mối quan hệ giữa các giai cấp và tầng lớp, các vùng, các miền với mục tiêu để giảm sự cách biệt giữa các giai cấp và tầng lớp, các vùng, các miền tạo điều kiện và cơ hội cho các giai cấp và tầng lớp
phía dưới xã hội phấn đấu đi lên nhanh hơn, thoát khói sự tụt hậu lại phía sau trong sự phát triển của xã hội.
- Chính sách xã hội đảm bảo công bằng xã hội phải hướng đến mục tiêu nhằm phát huy tối đa tài năng và trí tuệ, sức lực của người lao động vào sự nghiệp chung của đất nước và được hưởng thụ những thành quả xứng đáng với những đóng góp của họ.
Việc thực hiện và hoàn thiện chính sách xã hội phải là quá trình giải quyết đồng loạt những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, xã hội và trên cơ sở đó mới rút ra những kinh nghiệm, những chỗ cần hoàn thiện chính sách xã hội. Đặc biệt là trong 4 lĩnh vực: xóa đói giảm nghèo,giáo dục và đào tạo, tạo việc làm, phát triển hệ thống an sinh xã hội
- Chính sách xóa đói giảm nghèo
Để thực hiện tốt hơn nữa công cuộc xóa đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay và khắc phục những hạn chế trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, việc hoàn thiện thể chế chính sách cho lĩnh vực này phải đảm bảo các nội dung sau:
- Thúc đẩy phát triển kinh tế ngành, kinh tế vùng và các thành phần kinh tế tạo cơ hội cho người nghèo tăng thêm thu nhập
- Tạo cơ hội cho người nghèo được tiếp cận các dịch vụ sản xuất và các dịch vụ xã hội cơ bản khác
- Tạo điều kiện hướng nghiệp, chuyển giao công nghệ và đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người nghèo.
- Thúc đẩy xã hội hóa công tác xóa đói giảm nghèo, huy động các nguồn lực cho công tác xóa đói giảm nghèo.
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và sự tham gia của các tổ chức đoàn thể xã hội trong công tác xóa đói giảm nghèo.
- Chính sách về giáo dục và đào tạo
Trong quá trình hoàn thiện và thực thi chính sách xã hội trong lĩnh vực giáo dục để đảm bảo bình đẳng xã hội cần phải thực hiện những giải pháp cơ bản là:
Thứ nhất: Hoàn thiện những chính sách đầu tư cho giáo dục bao gồm cả trợ cấp, phụ cấp cho giáo dục. Trợ cấp, phụ cấp cho giáo dục phải đặc biệt chú ý đến với các đối tượng đặc biệt như: vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Thứ hai: Hoàn thiện và thực thi những chính sách xã hội liên quan đến việc hưởng lợi từ giáo dục.
Thứ ba: Tiếp tục thực thi và hoàn thiện những chính sách liên quan đến xã hội hoá giáo dục.
- Chính sách giải quyết việc làm
Để giải quyết tốt vấn đề việc làm, việc hoàn thiện chính sách cho vấn đề này phải hoàn thiện các nội dung sau
- Thực hiện nghiêm túc, nhất quán một mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế.
- Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội phù hợp với cơ cấu kinh tế.
- Xây dựng và thực hiện đồng bộ, chặt chẽ cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động.
- Hoàn thiện luật pháp, chính sách cho hoạt động và phát triển thị trường lao động.
- Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả xuất khẩu lao động, bảo vệ quyền lợi và uy tín của người lao động của Việt Nam ở nước ngoài.
- Giải quyết vấn đề lao động mất việc làm do doanh nghiệp không đứng vững được trong quá trình cạnh tranh và nông dân bị thu hồi đất để phát triển công nghiệp và đô thị.
- Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về tiền lương, tiền công. Tiền lương phải được coi là giá cả của sức lao động, được hình thành theo quy luật của thị trường, dựa trên cung cầu về lao động, chất lượng, cường độ lao động va mức độ cạnh tranh việc làm.
- Chính sách an sinh xã hội