- Việc gia nhập WTO cũng ảnh hưởng rất lớn đến tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam:
+ Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam có cơ hội tiếp cận với các thị trường nước ngoài, nhờ đó mà có thể tăng thêm khối lượng và giá trị xuất khẩu, thu hút được nhiều vốn đầu tư; tiếp cận được các công cụ giải quyết tranh chấp thương mại và đầu tư, mà chỉ có thành viên WTO mới có được; tạo điều kiện cho Việt Nam có cơ hội tăng trưởng kinh tế nhanh, thị trường trong nước cũng được mở rộng, đời sống nhân dân được cải thiện
+ Đồng thời cũng bên cạnh đó còn có rất nhiều thách thức và thua thiệt khi Việt Nam tham gia vào WTO: việc tự do hóa thương mại và đầu tư tiếp tục dẫn tới việc hình thành khu công nghiệp và đô thị mới, mặt khác làm cho khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị ngày càng doãng ra. Làn sóng dân cư nông thôn đổ về thành thị và các khu côn nghiệp có xu hướng tăng, gây sức ép quá tải về các công trình kết cấu hạ tầng và phức tạp về xã hội. Việc các khu đô thị và đẩy nhanh công nghiệp hóa gắn với việc thu hẹp diện tích đất sản xuất nông nghiệp, việc đào tạo nghề, chuyển đổi nghề cho những người nông dân có đất bị thu hồi lại không được chú trọng dẫn tới tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp, không chuyển đổi được nghề nghiệp, khó khăn trong cuộc sống dễ dẫn đến những nguy cơ bất ổn định xã hội ở nông thôn
+ Những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh thì có điều kiện phát triển và mở rộng thị trường, nhưng bên cạnh đó những mặt hàng có sức cạnh tranh yếu, nhất là các hàng hóa nông sản sẽ phải cạnh tranh gay gắt quyết liệt ngay trên thị trường nội địa. Nếu các mặt hàng này không cạnh tranh được thì buộc phải thu hẹp sản xuất, kinh doanh và thậm chí là phá sản thì hậu quả là những người lao động trong các lĩnh vực này sẽ thất nghiệp
- Bên cạnh đó còn tồn tại những yếu kém và bất lợi nội tại đối với sự phát triển của Việt Nam. Mức độ gay gắt của nguy cơ tụt hậu phát triển ngày càng rò nét. Những yếu kém này có thể quy về ba đặc trưng cơ bản của nền kinh tế nước ta hiện nay: chậm phát triển và lạc hậu (trình độ phát triển thấp kém); mặc dù đã trải qua hơn 20 năm đổi mới nhưng nhiều mặt của nền kinh tế vẫn đang trong quá
trình chuyển đổi (từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường đúng nghĩa); Việc giải quyết công bằng xã hội để phát triển bền vững đang nẩy sinh những vấn đề gay gắt, như: an sinh xã hội thấp, chênh lệch giầu nghèo, thất nghiệp, đô thị hóa, tham nhũng, văn hóa, giáo dục, y tế, môi trường…
Tóm lại, bối cảnh quốc tế cũng như trong nước hiện đang tạo ra rất nhiều điều kiện thuận lợi cũng như thách thức cho quá trình tăng trưởng cũng như thực hiện công bằng xã hội xã hôi ở Việt Nam hiện nay. Nó đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có những quan điểm, định hướng, cũng như những giải pháp đúng đắn để kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội nhằm mục tiêu phát triển bền vững.
3.2 Quan điểm giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn mới
Một là, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội có thể và cần phải làm tiền đề và điều kiện cho nhau. Tăng trưởng kinh tế tạo ra điều kiện vật chất để thực hiện công bằng xã hội, ngược lại thực hiện tốt công bằng xã hội lại trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Không thể có công bằng xã hội trên cơ sở một nền kinh tế thiếu hụt chỉ đủ cung cấp cho dân chúng một cuộc sống "giật gấu vá vai", "khéo ăn mới no, kheo co mới ấm". Cũng không thể có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, có hiệu quả cao và bền vững trong một xã hội với đa số dân chúng thấp kém về trí tuệ, ốm yếu về thể chất và một bộ phận đáng kể lực lượng lao động thất nghiệp, nghèo đói, bị đẩy ra ngoài lề xã hội.
Có thể bạn quan tâm!
- Chỉ Số Phát Triển Con Người (Hdi) Của Việt Nam Qua Các Năm
- Chỉ Số Nhận Thức Tham Nhũng (Cpi) Của Việt Nam Qua Các Năm
- Bối Cảnh Mới Và Tác Động Của Nó Đến Việc Giải Quyết Mối Quan Hệ Giữa Tăng Trưởng Kinh Tế Và Công Bằng Xã Hội Ở Việt Nam
- Hoàn Thiện Hệ Thống Chính Sách Kinh Tế Và Hệ Thống Chính Sách Xã Hội.
- Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam - 17
- Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam - 18
Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.
Hai là, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi tăng trưởng kinh tế đến đâu phải thực hiện ngay công bằng xã hội đến đấy. Không thể chờ đợi đến khi kinh tế đạt đến trình độ phát triển cao mới thực hiện công bằng xã hội, càng không hy sinh công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần vì lợi ích của một thiểu số. Muốn vậy, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới bảo đảm công bằng xã hội; mỗi chính sách bảo đảm công bằng xã hội
đều phải góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, dù trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hoặc lâu dài.
Ba là, thực hiện tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, đa sở hữu phải triệt để khắc phục những tàn dư của chế độ phân phối bình quân, "cào bằng", chia đều các nguồn lực và của cải làm ra, bất chấp chất lượng, hiệu quả của sản xuất, kinh doanh và sự đóng góp công sức, trí tuệ, tài sản của mỗi người cho sự phát triển chung của đất nước, như sai lầm của thời kỳ trước đổi mới. Càng không thể dồn phần lớn của cải làm ra để thực hiện các chính sách bảo đảm công bằng xã hội vượt quá khả năng mà nền kinh tế cho phép. Bởi như vậy sẽ làm giảm những điều kiện cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, khiến cho kinh tế trì trệ, suy thoái và rốt cuộc không thực hiện được các chính sách xã hội theo hướng công bằng. Do đó, trong mỗi bước đi, mỗi thời điểm cụ thể của quá trình phát triển phải tìm ra đúng mức độ hợp lý giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội sao cho hai mặt này không cản trở, triệt tiêu lẫn nhau mà trái lại chúng có thể hỗ trợ cho nhau.
Bốn là, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể tách rời với phát triển văn hóa. Nhiệm vụ rất quan trọng đặt ra hiện nay là phải làm sao đưa các nhân tố văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực hoạt động và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Năm là, để thực hiện được tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước là hết sức quan trọng. Do tác động của các quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu, kinh tế thị trường có mặt mạnh cơ bản là luôn kích thích việc cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa quy trình sản xuất kinh doanh. Nhưng vì bị chi phối bởi động cơ lợi nhuận, kinh tế thị trường không tránh khỏi các yếu tố tự phát vô chính phủ, dẫn đến suy thoái hoặc khủng hoảng kinh tế chu kỳ và nhất là không thể tự động dẫn đến công bằng xã hội. Do đó, Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải biết tận dụng mặt mạnh của cơ chế thị trường để giải phóng và
phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phải kết hợp sử dụng các công cụ pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch và sức mạnh vật chất của khu vực kinh tế nhà nước để khắc phục những thất bại của cơ chế thị trường nhằm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng bền vững; đồng thời, phải bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân.
3.3 Các giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
3.3.1. Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Nhà nước là điều kiện tiên quyết nhằm quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội
Việc gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường tất yếu cần đến sự can thiệp của các nhân tố chủ quan. Trong điều kiện nước ta hiện nay, điều tiên quyết phải giữ vững sự lãnh đạo của Đảng. Trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều nhạy cảm như hiện nay, không ít những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc nhằm làm lu mờ vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền, xa rời mục tiêu Đảng và nhân dân đã lựa chọn. Dù công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo còn nhiều hạn chế và yếu kém song không thể phủ nhận được những thay đổi lớn lao của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Những thành tựu ấy cùng đổi mới tư duy lãnh đạo của Đảng tạo đà cho các bước phát triển tiếp theo. Sự ổn định về mặt chính trị cũng như sự đổi mới về tư duy của Đảng đã thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn tại Việt Nam, kinh tế đối ngoại được mở rộng, an ninh xã hội được đảm bảo, an ninh quốc phòng được giữ vững. Các mục tiêu xã hội được xem xét và giải quyết đi liền với sự tăng trưởng về kinh tế… Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố không thể thiếu trên các chặng đường đổi thay của đất nước. Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của đất nước, tiếp tục đòi hỏi ở Đảng cầm quyền một trí tuệ ngang tầm, một bản lĩnh vững vàng, trong sạch, giữ được niềm tin nơi dân chúng. Đảng phải thực sự tiên tiến, lắng nghe ý kiến của nhân dân, hoạch định chủ trương đúng; Mặt khác Đảng phải thực sự là hạt nhân
đoàn kết tập hợp các giai cấp, tầng lớp xã hội, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Hướng tới điều này Đảng cần nghiêm túc phê và tự phê để vượt lên chính mình trong nhận thức; Đẩy mạnh công cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thờ ơ, vô trách nhiệm trong chính đội ngũ cán bộ đảng viên; Đoàn kết trong nội bộ Đảng và thực sự trở thành hạt nhân trong khối đoàn kết dân tộc… Làm được như vậy sẽ nâng cao được năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
Thực tế phát triển kinh tế thị trường ở các nước và kinh nghiệm nước ta trong những năm vừa qua cho thấy, sự phân hoá, phân tầng là một tất yếu. Sự tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế thị trường không đồng thuận với những yêu cầu phát triển xã hội nhân văn và công bằng. Người nghèo, vùng nghèo và cả những người có công với đất nước cũng luôn đứng trước nguy cơ bần cùng hoá trước sự bùng phát của kinh tế thị trường… Nếu để tự phát sẽ tạo nên phân hoá lớn gây bất ổn định xã hội, đạo lý sẽ bị vi phạm, mô hình xã hội nhân văn tốt đẹp không được thực hiện. Giải quyết vấn đề này tất yếu cần đến bàn tay điều tiết của Nhà nước.
Thứ nhất: Nhà nước điều tiết trước hết bằng những định hướng phát triển thông qua các chiến lược qui hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách.
Hướng tới điều này trước hết Nhà nước tiếp tục tạo môi trường cho kinh tế hàng hoá phát triển, tạo ra các hành lang pháp lý đủ mạnh để cho các chủ thể kinh tế tự do sáng tạo, độc lập, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, Nhà nước tạo điều kiện kết hợp nội lực và các nguồn lực bên ngoài để phát triển.
Bằng cơ chế quản lý Nhà nước cần tăng cường đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội. Theo các nhà kinh tế, việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng có tác động mạnh mẽ tới phát triển kinh tế cũng như thực hiện các tiêu chí công bằng xã hội. Việc phát triển kết cấu hạ tầng không chỉ mở ra các luồng thu hút vốn đầu tư đa dạng và tạo điều kiện phát triển và lan toả các vùng kinh tế, thúc đẩy các quan hệ kinh tế gia tăng về mặt số lượng cũng như chất lượng vì thế tác động giảm nghèo cũng đã gia tăng. Việc phát triển kết cấu hạ
tầng như hệ thống giao thông vận tải, hệ thống điện, thông tin liên lạc… làm cho người dân có cơ hội tiếp cận nhiều hơn tới thông tin, khoa học công nghệ, giao tiếp xã hội… Nhờ đó trình độ kiến thức người dân từng bước được nâng cao. Các dịch vụ y tế giáo dục mở ra, con người sẽ được bình đẳng hơn về mặt cơ hội. Việc Nhà nước điều tiết một cách hợp lý đầu tư kết cấu hạ tầng sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững, giảm bớt những bất công, thực hiện công bằng xã hội.
Thứ hai: Nhà nước định hướng XHCN cho quá trình phát triển của kinh tế thị trường. Nhà nước không chỉ tác động vào các quá trình kinh tế, tạo điều kiện cho kinh tế tăng trưởng và phát triển mà còn đảm bảo cho tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội. Trong khi cần chấp nhận quan hệ bóc lột ở mức độ nhất định thì Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải có chính sách điều tiết thu nhập giữa những người tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh sao cho người lao động không bị nhà tư bản bóc lột quá mức mà có thu nhập xứng đáng với giá trị hao phí sức lao động đã được thừa nhận. Hơn nữa Nhà nước cũng làm định hướng và qui hoạch để cân đối hợp lý mức đầu tư cho các vùng lãnh thổ khác nhau, một mặt khai thác hiệu quả kinh tế ở những vùng có lợi thế, mặt khác khắc phục tình trạng "bất công tự nhiên" và bất công do lịch sử để lại, ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng căn cứ cách mạng, kháng chiến trước đây nhằm giữ vững ổn định chính trị, xã hội, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Thứ ba: Vai trò Nhà nước được phát huy qua việc ban hành và thực thi hệ thống chính sách xã hội - thông qua các tổ chức, thiết chế Nhà nước có thể điều hành mọi cấp, mọi ngành, mọi lĩnh vực, mọi đối tượng.
Tóm lại, sự điều tiết để giải bài toán đầy mâu thuẫn là kết hợp tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là điều không đơn giản trên thực tế. Nếu quá ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế sẽ gây nguy cơ bất ổn về mặt xã hội; ngược lại nếu quá ưu tiên cho công bằng xã hội sẽ tạo nên những trì trệ cho nền kinh tế. Phải chăng, trong điều kiện còn nhiều khó khăn như ở nước ta cần thiết có sự ưu tiên cho các yếu tố vừa góp phần làm tăng trưởng kinh tế vừa giảm bớt những phân hoá phi lý bất công bằng về mặt xã hội.
Chúng ta thực hiện nền kinh tế thị trường, tận dụng tối đa tiềm năng của các thành phần kinh tế, tạo thêm nhiều cơ hội cho người lao động có thể tìm được việc làm phù hợp với năng lực của mình và được hưởng những thành quả lao động theo đóng góp của mình, hạn chế thất nghiệp. Tất nhiên chúng ta phải chấp nhận một thực tế là có thể có những người có cùng mức độ đóng góp lao động như nhau nhưng lại được hưởng những thu nhập không ngang nhau do sự khác nhau giữa các thành phần kinh tế, khác nhau giữa các vùng miền… Và chúng ta phải chấp nhận sự phân hoá giàu nghèo như là đặc điểm tất yếu của kinh tế thị trường, chấp nhận "một bộ phận nhân dân giàu trước" do tiếp nhận được những điều kiện làm việc, sinh sống, học tập… tốt hơn như ở các thành phố lớn, các khu vực kinh tế trọng điểm, có sự đầu tư nhiều hơn; chấp nhận sự giàu lên của một số người do năng động, chịu khó, làm ăn chính đáng, vượt qua được những thách thức cạnh tranh khắc nghiệt của cơ chế thị trường, biết sử dụng trí tuệ, sức lực, tài sản, vốn… một cách có hiệu quả.
Nhà nước với vai trò quản lý kinh tế - xã hội của mình phải có những chính sách khuyến khích làm giàu chính đáng, tạo điều kiện cho mọi đối tượng có cơ hội ngang nhau trong lao động, trong tổ chức sản xuất, trong kinh doanh… tuỳ theo khả năng của từng đối tượng; Nhà nước tạo môi trường, điều kiện cho phát triển sản xuất, thu hút lao động, giải quyết việc làm. Hơn nữa, Nhà nước cũng cần có những chính sách phân phối thu nhập phù hợp theo lao động, theo đóng góp (vốn, tài sản, công sức…) và chính sách phân phối lại thu nhập thông qua nhiều chính sách kinh tế để điều tiết hợp lý thu nhập của các tầng lớp dân cư (chính sách thuế thu nhập…) Đồng thời Nhà nước cần có các biện pháp, chính sách ưu tiên cho phát triển nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa để hạn chế bớt chênh lệch phát triển giữa các vùng này với các tỉnh, thành phố lớn như chính sách hỗ trợ vốn, cho vay vốn lãi suất thấp, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển giáo dục, nâng cao trình độ nhiều mặt cho nhân dân, tạo điều kiện cho người dân ngày càng có nhiều cơ hội tiếp cận với những kiến thức khoa học kỹ thuật tiên tiến, có những chính sách chăm sóc sức khoẻ, phát triển y tế… có những chính sách hỗ trợ kịp thời khi họ gặp phải những rủi ro như lũ lụt, hạn hán mất mùa, dịch
bệnh… Đặc biệt đối với những vùng sâu, vùng xa phải có chương trình làm sao cho người dân có thể sinh nhai vững chắc lâu dài ngay trên mảnh đất của họ chứ không phải cứ chặt cây phá rừng sinh sống một thời gian hết thức ăn lại di dời đi nơi khác hoặc là đi vào các đô thị để gia nhập vào đội quân thất nghiệp hay làm gia tăng thêm tệ nạn xã hội. Và điều không thể bỏ qua hiện nay là Nhà nước cần có chính sách đầu tư hơn nữa về mặt tài chính, tạo hành lang pháp lý để xã hội hoá các loại hình giáo dục, đào tạo nhằm tạo nhân lực có chất lượng cho tương lai.
3.3.2. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Thực tế những năm đổi mới vừa qua cho chúng ta thấy, trong điều kiện lực lượng sản xuất chưa phát triển, năng suất lao động chưa cao, các nguồn lực xã hội chưa nhiều, việc duy trì nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp như trước đổi mới không chỉ kìm hãm tăng trưởng kinh tế mà còn tạo lập một chế độ phân phối bình quân cào bằng bất bình đẳng về mặt vật chất. Trong nền kinh tế thị trường đã tạo được những cơ hội để các thành phần kinh tế cũng như các thành viên trong xã hội có cơ hội phát huy năng lực, sở trường vốn liếng vào phát triển kinh tế, trên cơ sở đó tạo điều kiện để mọi người có thể hưởng lợi từ các cơ hội xã hội tạo ra. Hơn nữa, sự tăng trưởng kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường cũng tạo những cơ sở vật chất để thực hiện phúc lợi một cách tốt hơn. Như vậy, việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN đã tạo ra những cơ sở kinh tế - xã hội, những điều kiện vật chất để tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội. Tiếp tục phát triển và hoàn thiện hơn nữa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa điều kiện cần thiết để có tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Theo mục tiêu ấy cần lưu ý một số điểm.
Thứ nhất, phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.