6,7 triệu đồng ( tăng 3,5 triệu đồng, gấp 2,1 lần so với năm 2001). Tỉ lệ hộ nghèo ở khu vực nông thôn giảm mạnh, từ 66,4% năm 1993, 45,5% năm 1998, 35,6%
năm 2002, 27,5% năm 2004 xuống còn 18% năm 2007.
2.2.2.5 Văn hóa, giáo dục, y tế.
- Văn hóa: Các hoạt động văn hóa thông tin trong thời kỳ đổi mới phát triển đúng với đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Từ năm 1996, Chính phủ đã tâp trung chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa, thông tin và tạo điều kiện để phát triển mạnh mẽ văn hóa thông tin, động viên toàn dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống văn hóa, phổ biến pháp luật, đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội, các mặt tiêu cực; khơi dậy và phát huy truyền thống nhân ái, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạn nạn, xây dựng gia đình văn hóa, làng bản, khu dân cư văn hóa. Các chương trình văn hóa về cơ sở, mở rộng diện tích phủ sóng của phát thanh, truyền hình thực hiện nhanh. Việc thực hiện chỉ tiêu xã, phường văn hóa được các cấp, ngành quan tâm nên đến đầu năm 2005 cả nước đã xây dựng mới và nâng cấp được 4.416 nhà văn hóa cấp xã phường và tương đương, 41% xã phường đã có nhà văn hóa. Một số tỉnh miền núi khó khăn, ví dụ như Sơn La, cũng đã xây dựng được 193 nhà văn hóa; Gia Lai xây dựng được 85 nhà văn hóa xã; Lào Cai xây dựng mới 185 nhà văn hóa thôn/bản; trong đó có 60 nhà văn hóa dành cho đồng bào các dân tộc ít người, Đắk Lắk có 217 nhà văn hóa cộng đồng ở cac thôn, buôn đồng bào Êđê, M’Nông, chiếm 41,1% trong tổng số thôn/buôn đồng bào các dân tộc ít người trong toàn tỉnh.
Công tác bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc ít người được coi trọng và phát triển. Thời lượng phát thanh truyền hình băng tiếng nói dân tộc được tăng cường. Năm 1997, ngoài Tiếng Việt, Đài Tiếng nói Việt Nam còn phát 4.356 chương trình phục vụ dân tộc đồng bào dân tộc bằng 5 thứ tiếng; Mông, Khơme, Ê Đê, Giarai, Ba Na, năm 1998, đã phát thêm tiếng Xê Đăng đã giúp cho đồng bào hiểu rò hơn về tình hình phát triển kinh tế - xã hội, chính sách xóa đói giảm nghèo, khuyến nông, khuyến lâm, hỗ trợ đầu tư để bảo tồn và phát triển các
truyền thống văn hóa dân tộc. Từ năm 2000, phát thêm tiếng Thái, K’Ho. Từ năm 2001, thực hiện chương trình truyền hình bằng các thứ tiếng dân tộc cho các địa phương; giúp địa phương đào tạo, bồi dưỡng phóng viên, phát thanh viên, biên tập viên… là người dân tộc để làm truyền hình cho các Đài địa phương nhằm đảm bảo chất lượng ngày càng tốt hơn. Chương trình truyền hình tiếng dân tộc đảm bảo thời lượng phát sóng 8h/ngày.
- Giáo dục: Việt Nam luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng dạy và học; huy động tiềm năng của các thành phần kinh tế trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo theo định hướng xã hội hóa.
Những định hướng mục tiêu phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã được thể hiện trong các văn bản của Nhà nước Việt Nam như: Chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo 2001 -2010; Kế hoạch hành động quốc gia giáo dục cho mọi người 2003 - 2015; Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục - đào tạo 2001 - 2005; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm; Nghị quyết Quốc hội về Đổi mới sách giáo khoa và Thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Mức đầu tư cho giáo dục và đào tạo tăng lên đáng kể. Ngân sách chi cho giáo dục đào tạo năm 2005 đạt gần 43.000 tỷ đồng, chiếm 18% tổng chi ngân sách. Năm 2006, đạt gần 55.000 tỷ đồng, chiếm 19%; Năm 2007 đạt gần 67.000 tỷ đồng, chiếm 20% tổng chi ngân sách. năm 2008 là 72.520 tỷ đồng. Cơ cấu chi cho giáo dục tăng theo hướng: tăng chi ngân sách cho các bậc học phổ cập ( Chi ngân sách nhà nước cho tiểu học và trung học cơ sở chiếm 52,6% tổng chi thường xuyên cho giáo dục). Các dự án ODA trong ngành giáo dục - đào tạo đã dành phần lớn cho giáo dục cơ bản (tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông) đã và đang triển khai với tổng vốn vay hàng năm hàng trăm triệu đô la Mỹ.
Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm thực hiện công bằng trong tiếp cận giáo dục; đặt biệt là đối với trẻ em dân tộc ít người và trẻ em các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện một số chính sách ưu tiên cho các vùng này; Nhà nước đã ban hành tiêu chí về chất
lượng tối thiểu nhằm xây dựng mô hình trường tiểu học đạt chuẩn chất lượng cơ bản phù hợp với điều kiện kinh tế của các vùng khó khăn; phát hành công trái giáo dục để hỗ trợ cho các tỉnh miền núi, các tỉnh khó khăn thực hiện mục tiêu xóa phòng học 3 ca và tranh tre nứa vào năm 2005. Ngày 10/1/2008, Thủ tướng chính phủ đã ký quyết định 07/2008/QĐ - TTg về Chương trình mục tiêu Quốc gia về Giáo dục và Đào tạo đến năm 2010, theo đó Chương trình sẽ hỗ trợ giáo dục và đào tạo cho các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa và các vùng đặc biệt khó khăn với tổng kinh phí là 3.000 tỷ đồng nhằm hoàn thiện cơ sở vật chất cho 48 trường phổ thông dân tộc nội trú theo hướng chuẩn hóa (đủ nhà học, phòng học bộ môn, ký túc xá, nhà đa năng, phòng hướng nghiệp, nhà ăn…) Hỗ trợ xây dựng nhà ở, nhà bếp và các trang thiết bị thiết yếu cho công việc tổ chức đời sống nội trú cho gần 900 trường phổ thông dân tộc nội trú, nhằm tạo thêm các điều kiện cho phổ cập giáo dục vững chắc tiểu học và trung học cơ sở, cung cấp trang thiết bị, tài liệu, phương tiện nghe nhìn, đồ dùng dạy học nhằm thực hiện đổi mới phương pháp, nội dung chương trình, giáo dục hướng nghiệp và giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc.
Nhằm hỗ trợ học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn tiếp cận với nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước, góp phần trang trải chi phí cho việc học tập, sinh hoạt trong quá trình theo học tại trường, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg về Tín dụng đối với học sinh, sinh viên với nhiều điểm mới . Theo Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg, mức vốn cho HSSV vay đã được nâng từ 300.000đ/tháng/HSSV lên mức cho vay tối đa là 800.000đ/tháng/HSSV cho phù hợp với tình hình hiện nay, giúp HSSV có thể trang trải các chi phí trong quá trình học tập. Đối với HSSV đã và đang vay vốn theo Quyết định 107/2006/QĐ- TTg cũng sẽ được vay vốn theo mức trần tối đa 800.000đ/tháng kể từ năm học 2007-2008. Mức vay này sẽ được điều chỉnh khi có chính sách thu học phí mới và có biến động về giá cả sinh hoạt. Mức lãi suất 0,65%/tháng trước đây cũng được điều chỉnh từ năm học 2007-2008 chỉ ở mức 0,5%/tháng. Phương thức cho vay đối với HSSV nghèo được thực hiện thông qua hộ gia đình, đại diện hộ gia đình
là người trực tiếp giao dịch tín dụng với Ngân hàng Chính sách xã hội và có trách nhiệm, quyền lợi theo quy định của pháp luật
Ngoài ra, Nhà nước và các Đoàn thể, tổ chức, cá nhân trong xã hội thường xuyên có trợ cấp và học bổng cho giáo dục. Các hình thức hỗ trợ thường là cắt giảm học phí, hỗ trợ mua sách giáo khoa, dụng cụ học tập giá rẻ, trợ cấp học bổng.
- Y tế: Đảng và Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo công tác Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân (CS&BVSKND) như: Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân năm 1989, Pháp lệnh Phòng chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 1995, Pháp lệnh An toàn vệ sinh thực phẩm năm 2003, Pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân năm 2003, Chiến lược CS&BVSKND giai đoạn 2001- 2010, Chiến lược Quốc gia về Dinh dưỡng giai đoạn 2001- 2010, Chiến lược Quốc gia về chăm sóc sức khoẻ sinh sản giai đoạn 2001- 2010, Chiến lược quốc gia về phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm (phòng chống sốt rét, phòng chống lao, phòng chống sốt xuất huyết, phòng chống phong, phòng chống bướu cổ, tiêm chủng mở rộng, bảo vệ sức khoẻ tâm thần cộng đồng…), và nhiều chính sách quốc gia khác. Các chương trình này đã và đang được triển khai thực hiện bằng nội lực của toàn ngành y tế và được sự quan tâm lãnh đạo của tổ chức Đảng và chính quyền các cấp, sự tham gia tích cực của các đoàn thể quần chúng và nhân dân, sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế. Từ thập kỷ 1990 trở lại đây, công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, đặc biệt là bà mẹ và trẻ em, đã được chú trọng hơn ở Việt Nam
Hệ thống y tế từ Trung ương xuống huyện, xã bắt đầu được củng cố và tăng cường đầu tư để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân. Việt Nam đã thực hiện nhanh và hiệu quả chương trình Tiêm chủng mở rộng cho trẻ em, trong đó nội dung tiêm phòng sởi cho trẻ em dưới 1 tuổi đặc biệt được quan tâm, từ năm 1999 đến nay tỷ lệ trẻ em được tiêm phòng sởi đều đạt trên dưới 95%, góp phần đáng kể vào kết quả giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em. Ngoài ra, Chính phủ Việt
Nam rất quan tâm đến chăm sóc sức khỏe bà mẹ, cứ 10 trường hợp sinh thì có trên 9 bà mẹ được cán bộ y tế chăm sóc, bao gồm chăm sóc cho thai nhi và chăm sóc khi đẻ.
2.2.2.6 Vấn đề môi trường sinh thái
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của Việt Nam phải trả giá bằng môi trường. Những năm gần đây Việt Nam phải chứng kiến sự xuống cấp nghiêm trọng của chất lượng mặt nước, không khí, tài nguyên biển và rừng; đa dạng sinh thái cũng bị đe dọa. Nếu xu hướng này tiếp tục duy trì thì sự bền vững của tăng trưởng kinh tế sẽ bị đe dọa, trong đó những người nghèo sẽ bị thiệt thòi nhất. Chính phủ đã có những cam kết rò rệt về môi trường và coi đây là một trong những mục tiêu chính của Chính phủ, bên cạnh các mục tiêu về kinh tế và xã hội như trước đây.
Trong thời kỳ đổi mối, việc bảo vệ môi trường được bắt đầu bằng "Kế hoạch quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000" (Quyết định số 187-CT ngày 12 tháng 6 năm 1991), tạo tiền đề cho quá trình phát triển bền vững ở Việt Nam. Quan điểm phát triển bền vững đã được khẳng định trong Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó nhấn mạnh: "Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Bên cạnh đó khung pháp lý về môi trường được cải thiện theo thời gian, như Luật Bảo vệ môi trường ra đời ngày 27/12/1993 và được sử đổi vào năm 2006, Luật Tài nguyên nước ra đời ngày 20/5/1998.
Hiện nay, Chiến lược Quốc gia về Bảo vệ Môi trường đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 đang được thực hiện. Chiến lược về môi trường của Chính phủ Việt Nam bao gồm những nỗ lực trên ba mặt trận. Thứ nhất, lồng ghép những vấn đề môi trường vào quy trình lập kế hoạch, đặc biệt thông qua những Đánh giá Môi trường chiến lược ở các cấp nghành. Thứ hai, xây dựng những
công cụ hành chính và kinh tế để kiểm soát ô nhiễm, ví dụ như thu phí nước thải thông qua Nghị định số 67/2003/NĐ và chế tài sử phạt các trường hợp không tuân thủ. Và thứ ba là cố gắng hạn chế sự suy giảm về đa dạng sinh học bằng cách mở rộng các khu bảo tồn thiên nhiên, trên cả nước hiện đang xây dựng và quy hoạch 143 khu bảo tồn ( bao gồm cả 28 vườn Quốc gia). Chương trình Nghị sự 21 quốc gia về tài nguyên thiên nhiên,Chiến lược và Chương trình hoạt động về Quản lý và Giảm nhẹ thiên tai lần thứ 2 (2001 -2020) đã được thực hiện. Chính phủ đã cấp 200 tỷ đồng cho quỹ Bảo vệ môi trường quốc gia, 600.000 USD được dành cho các dự án quy mô nhỏ. Hiện nay, Quỹ bảo vệ môi trường toàn cầu GEF đang hoạt động ở Việt Nam với số vốn trên 2 tỷ USD. Việt Nam đang nỗ lực xóa đói giảm nghèo để giảm áp lực lên môi trường và xây dựng một nền công nghiệp thân thiện với môi trường. Ngoài ra, vấn đề bảo vệ môi trường ở Việt Nam đã được nhận thức sâu sắc hơn, nên các cá nhân, tổ chức, và các doanh nghiệp cũng rất tích cực tham gia vào hoạt động bảo vệ môi trường.
2.3 Đánh giá chung về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong thời kỳ đổi mới
Trong suốt hơn 20 năm đổi mổi kinh tế Việt Nam đã đã được những thành tựu quan trọng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trên nhiều lĩnh vực.
2.3.1 Những thành tựu đã đạt được
- Xóa đói giảm nghèo: Nhận thức sâu sắc về xóa đói giảm nghèo có ý nghĩa kinh tế - xã hội, chính trị và nhân văn, Chính phủ Việt Nam luôn cam kết coi việc nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế, hướng tới người nghèo và đẩy lùi nghèo đói là một trong những ưu tiên hàng đầu. Vì vậy, xóa đói giảm nghèo là một trong những thành công lớn nhất của quá trình phát triển xã hội của Việt Nam từ đầu thập niên 1990 đến nay. Tỷ lệ người nghèo theo chuẩn quốc tế giảm từ 58,1% năm 1993 xuống 24,1% năm 2004 tương đương với 60% hộ nghèo. Việt Nam đã hoàn thành sớm hơn so với Kế hoạch Thiên nhiên kỷ là giảm hơn một nửa tỷ lệ đói nghèo vào năm 2005. Năm 2007 tỷ lệ người nghèo trên toàn quốc là
14,75 % (khoảng 13 triệu người). Trong vòng 14 năm đã giảm 35 triệu người nghèo. Tỷ lệ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số từ 86,4% năm 1993 giảm xuống còn 52,3% vào năm 2006 (trên 7 triệu người), trung bình mỗi năm giảm 2,4%, tỷ lệ nghèo của người Kinh và Hoa là 53,9% năm 1993 giảm còn 10,36% vào năm 2006 trung bình mỗi năm giảm 3,15%.
Tỷ lệ hộ đói nghèo theo chuẩn Việt Nam của giai đoạn này đã giảm mạnh. Trong khoảng thời gian 5 năm (2001 - 2005), tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh từ 17,2% năm 2001 với 2,8 triệu hộ, xuống còn 8,3% năm 2004 với 1,44 triệu hộ, bình quân mỗi năm giảm 34 vạn hộ, đến cuối năm 2005 còn 7% với 1,1 triệu hộ. cuối năm 2003, tỷ lệ hộ nghèo toàn quốc đã giảm xuống dưới 10%, báo hiệu sự “về đích” sớm hơn 2 năm so với mục tiêu giảm hộ nghèo đến cuối 2005 của chính phủ. Năm 2004, hộ nghèo tiếp tục giảm trên 300 ngàn hộ, hạ tỷ lệ hộ nghèo xuống chỉ còn 8,3%. năm 2005 tỷ lệ hộ nghèo sẽ giảm xuống mức chỉ còn 7%. Như vậy, trung bình mỗi năm giảm 375 ngàn hộ và tỷ lệ hộ nghèo giảm 2,5%. Việt Nam còn đứng thứ 47 trong tổng số 103 nước đang phát triển được xếp hạng về chỉ số nghèo tổng hợp (HPI). "những thành tựu giảm nghèo của Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất trong phát triển kinh tế", đó là đánh giá trong "Báo cáo Phát triển Việt Nam năm 2004" của Ngân hàng Thế giới.
Bảng 8: Mức độ đói nghèo ở Việt Nam 1993 - 2004 theo chuẩn quốc tế (%)
1993 | 1998 | 2002 | 2004 | |
Tỷ lệ nghèo chung | 58,1 | 37,4 | 28,9 | 24,1 |
Thành thị | 25,1 | 9,2 | 6,6 | 10,8 |
Nông thôn | 66,4 | 45,5 | 35,6 | 27,5 |
Tỷ lệ nghèo lương thực 24,9 | 13,3 | 9,9 | 7,8 | |
Thành thị | 7,9 | 4,6 | 3,9 | 3,5 |
Nông thôn | 29,1 | 15,9 | 11,9 | 8,9 |
Có thể bạn quan tâm!
- Tăng Trưởng Và Lạm Phát Của Việt Nam Giai Đoạn 1998 - 2007
- Xếp Hạng Năng Lực Cạnh Tranh Tăng Trưởng Của Việt Nam
- Nguồn Ngân Sách Trung Ương Cho Chương Trình 135
- Chỉ Số Phát Triển Con Người (Hdi) Của Việt Nam Qua Các Năm
- Chỉ Số Nhận Thức Tham Nhũng (Cpi) Của Việt Nam Qua Các Năm
- Bối Cảnh Mới Và Tác Động Của Nó Đến Việc Giải Quyết Mối Quan Hệ Giữa Tăng Trưởng Kinh Tế Và Công Bằng Xã Hội Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.
Nguồn: Báo cáo Phát triển Việt Nam, Điều tra mức sống hộ gia đình. TCTK, 2004
Bên cạnh đó, với việc thực hiện hiệu quả các giải pháp xóa đói giảm nghèo và đầu tư các công trình hạ tầng kinh tế và xã hội ở các vùng nghèo, xã nghèo,
nhất là các vùng đồng bào dân tộc ít người… đời sống của các dân tộc đồng bào ít người đã được nâng lên rò rệt. Tỷ lệ hộ nghèo của các vùng dân tộc ít người như: miền núi Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên, Khu 4 cũ … đã giảm đáng kể: vùng Đông Bắc giảm 2,7 lần; vùng Tây Bắc giảm 1,5 lần; vùng Tây Nguyên giảm 2,2 lần. Nhóm dân tộc Tày, Thái, Mường, Nùng tỷ lệ nghèo năm 1993 là 82% xuống còn khoảng 42% năm 2006. Các nhóm dân tộc thiểu số khác từ 84% (1995) giảm xuống còn 50%. Trong khi đó người Kinh từ 52% (năm 1993) xuống còn 10% (2006); người Hoa từ 15% (1993) xuống còn 7% (2006). Nhóm các dân tộc thiểu số ít người ở Tây Nguyên từ 96% giảm xuống còn khoảng 73% cùng trong khoảng thời gian trên ( Eđê, Raglai...). Nhóm dân tộc thiểu số ít người khác ở miền núi phía Bắc từ 85% (năm 1993) giảm xuống còn trên 70% (năm 2006).
Đời sống của nhân dân được cải thiện rò rệt: Thu nhập bình quân đầu người nước ta từ 220USD/người/năm đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã tăng lên 400USD/người/năm (2000), tăng 1,8 lần, 483 USD/người/năm (2003), 580
USD/người/năm (2004); 631 USD/người/năm (2005) và 729 USD/người/năm (2006) và 809 USD/người/năm vào năm 2007. Tốc độ tăng trưởng GDP trên đầu người ở Việt Nam khoảng 5,9%/năm trong giai đoạn 1990 - 2005 [37,284] .
- Giải quyết việc làm: Với các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung và giải quyết việc làm nói riêng, tổng số việc làm hàng năm tăng liên tục. Số lao động được tạo việc làm mới trong giai đoạn 1986 - 1990 là 4,2 triệu lao động, giai đoạn 1991 - 1995 là 5 triệu lao động, giai đoạn là 2001 -2005 là 7,54 triệu lao động, năm 2006 là 1,65 triệu lao động và năm 2007 là 1,6 triệu lao động. Tỷ lệ thấp nghiệp ở thành thị giảm từ 6,9% năm 1998 xuống còn 4,82% năm 2006. Cũng trong giai đoạn này tỷ lệ sử dụng thời gian lao động trong độ tuổi lao đông ở nông thôn tăng từ 71% lên 81,7%.
- Giảm bất bình đẳng về giới: Việt Nam cũng đã đạt được được những thành tựu đáng ghi nhận trong lĩnh vực bình đẳng giới và nâng cao vị thế cho phụ nữ. Tỷ lệ nữ chiếm 51% dân số và 48,2% lực lượng lao động xã hội, đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội và trong công cuộc phát triển đất nước. Chỉ số phát triển giới (GDI) của Việt Nam tăng từ 0,668 năm1998 lên 0,689 năm 2004,