Tăng Trưởng Và Lạm Phát Của Việt Nam Giai Đoạn 1998 - 2007

lệ lạm phát tương ứng là 4,4%/năm và 4,3%/năm; thậm chí là giảm phát trong năm 2000 (-0,6%). Tuy nhiên, trong hai năm 2004 - 2005 khi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá cao 7,79% (năm 2004) và 8,5% (năm 2005) thì lạm phát của Việt Nam cũng tăng lên ở mức 9,5% (năm 2004) và 8,4% (năm 2005), cao hơn cả tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tưởng chừng lạm phát đã giảm khi xuống còn 6,6% trong năm 2006, nhưng năm 2007 lạm phát là 12,6%, và lạm phát năm 2008 là 22%. Theo công bố của Tổng cục Thống kê, giá tiêu dùng tháng 1.2008 đã tăng 2,38% so với tháng 12.2007 và tăng 14,11% so với tháng 1 cùng kỳ năm trước, trong đó tăng cao có các nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng như: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tương ứng tăng 3,76% và 22,01% (lương thực tăng 3,35% và 17,75%; thực phẩm tăng 3,75% và 24,62%, ăn uống ngoài gia đình tăng 4,27% và 20,58%); nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2,88% và 16,89%; đồ dùng và dịch vụ khác tăng 2,6% và 10,68%.

Bảng 3: Tăng trưởng và lạm phát của Việt Nam giai đoạn 1998 - 2007


Năm

199

8

199

9

200

0

200

1

200

2

200

3

200

4

200

5

200

6

200

7

Tăng trưởng

GDP(%)

5,8

4,8

6,8

6,8

7,0

7,3

7,6

8,5

8,2

8,5

Lạm phát(%)

7,8

4,1

-1,7

0,8

1,5

3,0

9,5

8,4

6,6

12,6

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam - 8

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Đúng là giá lương thực - thực phẩm và giá dầu thế giới đã tăng cao trong năm 2007. Do hai nhóm hàng hóa này đều là những sản phẩm ngoại thương chủ đạo của Việt Nam và đồng thời chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu CPI, đây chắc chắn là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát cao ở Việt Nam trong một vài năm gần đây. Nhưng nếu giá lương thực - thực phẩm và giá dầu lửa thế giới là nguyên nhân chính, thì các nước trong khu vực như Thái Lan và Trung Quốc cũng phải chịu sức ép tăng giá tương tự. Tuy nhiên, trong khi tỷ lệ lạm phát của Việt Nam năm 2007 lên tới 2 chữ số, thì Trung Quốc chỉ chịu lạm phát ở mức 6,5% và Thái Lan 2,9%. Khác biệt rò rệt nhất giữa Việt Nam với các quốc gia có

lạm phát thấp hơn, như Trung Quốc và Thái Lan, đó là tốc độ tăng cung tiền. Tính tới cuối tháng 6 năm 2007, lượng tiền mặt trong lưu thông và tiền gửi ngân hàng ở Việt Nam đã tăng tới 21,1% so với đầu năm. Con số tương ứng của Trung Quốc và Thái Lan lần lượt là 10,0% và 1,4%.Tăng trưởng kinh tế liên tục và ở mức cao đòi hỏi lượng tiền đưa vào lưu thông cũng phải tăng lên tương ứng. Tuy nhiên, khi chênh lệch giữa mức tăng cung tiền và tăng tổng sản phẩm quốc gia (GDP) trở nên quá lớn thì áp lực lạm phát sẽ nảy sinh.Về mặt nguyên tắc, giá trị tính theo tiền của một mặt hàng luôn bằng lượng hàng hóa nhân với giá. Nếu giá trị tính theo tiền tăng lên, nhưng lượng hàng không tăng hay tăng chậm hơn, thì giá buộc phải tăng. Ta có thể hình dung GDP (sau khi loại bỏ yếu tố trượt giá) là tổng sản lượng sản xuất ra trong năm để phục vụ tiêu dùng cuối cùng, đầu tư hay ngoại thương, còn mức cung tiền là tổng giá trị tính theo tiền. Mức cung tiền vượt GDP nhiều lần thì lạm phát cao là điều không tránh khỏi.Như đã được đề cập, cung tiền ở Việt Nam tăng mạnh trong năm 2007 là do vốn nước ngoài chảy vào tăng đột biến, từ đó buộc Ngân hàng Nhà nước phải đóng vai trò người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa thêm tiền đồng vào lưu thông. Nhưng lạm phát bùng lên có thể còn bắt nguồn từ mức chênh lệch giữa tăng trưởng GDP và tăng cung tiền của Việt Nam đã ngày một dãn rộng trong vòng 3 năm qua. So sánh tốc độ tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng GDP của ba nước, lấy năm 2004 bằng 100%. Cung tiền đo bằng M2 (gồm tổng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng). Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005 cho đến cuối tháng 6 năm 2007, GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng lên đến 110%. Trong cùng giai đoạn này, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch giữa tăng GDP và tăng cung tiền của Thái Lan là hầu như không đáng kể.

Việt Nam tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với Trung Quốc, nhưng tăng cung tiền lại cao hơn rất nhiều. Đó chính là lý do chính để giải thích tại sao lạm phát ở Việt Nam cao hơn hẳn những nước khác. Giá gạo hay giá dầu thế giới có tăng cao bao nhiêu, thì sức ép của các yếu tố này tới lạm phát ở Việt Nam, Trung Quốc và Thái Lan không thể khác nhau nhiều.

* Thâm hụt cán cân thương mại

Tuy tốc độ tăng của xuất khẩu có xu hướng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của nhập khẩu (năm 2005, tăng xuất khẩu là 22,4%, nhập khẩu là 15,7%), song kim ngạch nhập khẩu luôn lớn hơn xuất khẩu, cán cân thương mại của Việt Nam vẫn đang ở tình trạng thâm hụt. Cụ thể, năm 2004, trong khi xuất khẩu của Việt Nam đạt kim ngạch 26,503 tỷ USD thì nhập khẩu cũng tăng lên tới 31,1%. Tổng giá trị nhập siêu của Việt Nam trong năm 2005 là 4314 triệu USD, năm 2006 là 5064,9 triệu USD và năm 2007 là 14120,0 triệu USD. Xu hướng này không hoàn toàn có ý nghĩa tiêu cực, đây cũng là xu thế tất yếu của các nước đang trong giai đoạn đầu tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần nhập nhiều thiết bị, công nghệ máy móc nhằm nâng cao trình độ kỹ thuật cho sản xuất trong nước. Song bên cạnh đó cơ cấu xuất nhập, khẩu của Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại gây hạn chế khả năng đóng góp xuất, nhập khẩu vào tăng trưởng.

- Thứ nhất, mặc dù xuất khẩu đã tăng trưởng rất nhanh trong thời kỳ sau đổi mới, nhưng cơ cấu xuất khẩu lại hầu như không có nhiều thay đổi, chỉ thiên về xuất khẩu nông sản chưa chế biến (lúa gạo, cà phê, thủy sản,…) và khoáng sản (chủ yếu là dầu thô), những mặt hàng có hàm lượng công nghệ, chất lượng cao xuất khẩu còn ít. Tỷ trọng hàng hóa công nghệ cao xuất khẩu trên tổng giá trị chế biến hàng xuất khẩu của Việt Nam chỉ khoảng 8,2%, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, so với Malaixia là 67%; Trung Quốc 39%; Thái Lan 49%; Philippin; 33% và Inđônêxia 18% (năm 1999).

- Thứ hai, nước ta hiện nay vẫn chưa xây dựng được mạng lưới các ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ trực tiếp cho các hoạt động sản xuất để xuất khẩu. Ngành sản xuất xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là nhập khẩu nguyên liệu để gia công như ngành da giày, may mặc,…

- Thứ ba, tỷ trọng hàng nhập khẩu phục vụ cho tiêu dùng và nguyên, vật liệu trong cơ cấu hàng nhập khẩu tuy đã giảm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn; tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ còn khiêm tốn.

Như vậy, tuy đã có những sự thay đổi cơ bản trong cơ cấu kinh tế, nhưng nhìn một cách tổng thế, cơ cấu kinh tế Việt Nam vẫn còn lạc hậu. Hiện tại cơ cấu

kinh tế của Việt Nam giống như cơ cấu kinh tế của một số quốc gia ASEAN đầu thập kỷ 80 thế kỷ XX


* Chất lượng tăng trưởng còn thiếu các yếu tố bền vững

Hơn mười năm qua, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước, với mức tăng bình quân hàng năm 7,5%. Từ một nước có nền công nghiệp kém phát triển, Việt Nam ngày nay từng bước xây dựng một nền công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy vậy, vấn đề nổi lên hiện nay đó là vấn đề chất lượng tăng trưởng liên quan đến tỷ trọng đóng góp của TFP (năng suất các nhân tố tổng hợp hay còn được định nghĩa là quan hệ giữa đầu ra với tổng hợp các đầu vào, bao gồm cả các yếu tố không định lượng được như quản lý, khoa học công nghệ…) còn thấp. Sự tăng trưởng đạt được chủ yếu do tăng vốn đầu tư và số lượng lao động chứ không phải là do nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư, trình độ công nghệ và chất lượng lao động. Điều này đe doạ tính bền vững trong hiện thời và tương lai, tạo ra mâu thuẫn giữa tốc độ tăng trưởng (số lượng) và chất lượng, hiệu quả tăng trưởng.

Hiện nay, ở nước ta, tăng trưởng kinh tế do yếu tố vốn và lao động còn chiếm chủ yếu, vai trò của TFP có tăng, nhưng còn rất thấp nếu so với ngay các nước đang phát triển ở Châu Á.

Bảng 4: Tỷ trọng đóng góp của các nhân tố đầu vào đối với tăng trưởng GDP (%)


Thời kỳ

Các yếu tố

1993 - 1997

1998 - 2002

2003 -

2006

1. Đóng góp theo điểm phần trăm (%)

8,8

6,2

7,84

- Vốn

6,1

3,56

3,78

- Lao động

1,4

1,24

1,4

- TFP

1,3

1,4

2,7


2. Đóng theo tỷ lệ phần trăm (%)

100,0

100,0

100,0

- Vốn

69,3

57,5

52,7

- Lao động

15,9

20

19,1

- TFP

14,8

22,5

28,2

Tổng hợp nguồn: Kinh tế Việt Nam 2003-2004 và Thời báo kinh tế Việt Nam.

Từ 1993 đến nay, đóng góp của TFP vào GDP có tăng lên nhưng tăng còn dè dặt và chiếm tỷ trọng không lớn (14,8% lên 28,2%); tỷ trọng đóng góp của lao động tăng lên trong giai đoạn 1998 - 2002 nhưng lại có xu hướng giảm dần giai đoạn sau đó; đóng góp từ vốn có giảm xuống (từ 69,3% xuống còn 52,7%), tuy nhiên yếu tố vốn vẫn chiếm chủ yếu trong đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. So sánh với các nước trong khu vực, tỷ trọng TFP trong tăng trưởng của nước ta thấp hơn rất nhiều (thời kỳ 1980 - 2000 ở Hàn Quốclà 39,96%, Ấn Độ là 40,78%). Các chỉ số này phản ánh tính chất của tăng trưởng nước ta còn nghiêng về chiều rộng hơn là chiều sâu. Xu hướng phát triển chủ yếu dựa vào yếu tố vốn đầu tư, trong khi đó, vốn tự có thấp, chủ yếu phải đi vay từ nước ngoài, vay trong dân cư,… sẽ khiến cho tăng trưởng thiếu tính bền vững, ổn định, dễ bị tác động từ các yếu tố bên ngoài, đặc biệt từ sự biến động của thị trường vốn. Yếu tố lao động được coi là nguồn lực nội sinh, hiện đang có lợi thế so sánh (như giá rẻ, dồi dào…) thì chỉ đóng vai trò thấp hơn nhiều so với yếu tố vốn trong tăng trưởng.

Nguyên nhân của tình trạng này ở nước ta có thể được xem xét dựa trên các yếu tố cơ bản trong năng suất nhân tố tổng hợp đó là hiệu quả đầu tư, chất lượng lao động được thể hiện qua năng suất lao động và tiến bộ khoa học công nghệ.

- Hiệu quả đầu tư: lượng vốn đầu tư liên tục tăng trong những năm qua, năm 2000 vốn đầu tư thực hiện theo giá thực tế là 151,2 nghìn tỷ đồng (bằng 34,2% GDP); năm 2005 tăng lên 324 nghìn tỷ đồng (bằng 38,7% GDP), năm 2006 tăng lên 404,8 nghìn tỷ đồng ( bằng 41,5% GDP) và năm 2007 là 521,7 nghìn tỷ đồng (chiếm 45,7%GDP). Tốc độ tăng về vốn đầu tư thực hiện cao hơn tốc độ tăng GDP, tăng 22,3% (giai đoạn1991 - 1995); 12,2% (1996 - 2000) và 13% (2001 - 2005). Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư lại thấp và ngày càng giảm, thể hiện qua chỉ số ICOR còn khá cao và liên tục tăng, cụ thể từ 2,7 (năm 1991) tăng dần lên 3,6 (năm 1997); tăng cao đột ngột năm 1998 và 1999 tương ứng là 5,3 và 6,1; sau giai đoạn này, chỉ số ICOR có giảm nhưng vẫn ở mức cao so với trước

giai đoạn khủng hoảng, 4,9 (năm 2003) và lên cao nhất vào năm 2005 (6,93), năm 2006 là 4,88 và năm 2007 là 4,9.


Biểu đồ 4: Hệ số ICOR các năm 1991 - 2007

Hệ số ICOR


HÖ sè ICOR

8

7

6

5

6.93

6.1

5.3

4.6

4.8 4.9 4.91

4.88 4.9

4

3

2

1

0

4.5

2.7

2.9 3

2.9

3.1

3.6

2.1

1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007

Tổng hợp nguồn: Tổng cục Thống kê

Có thể nói trong những năm đầu của công cuộc đổi mới, nhờ đổi mới cơ chế, nền kinh tế đã huy động được tài sản cố định và khai thác hiệu quả các công suất đã đầu tư trước đây, do vậy kết quả đầu tư tương đối có hiệu quả, hệ số ICOR thấp. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á, cùng với chính sách kích cầu, đầu tư vào kết cấu hạ tầng ở nông thôn tăng nhanh, hệ số ICOR đã tăng nhanh. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đầu tư kém hiệu quả, hệ số ICOR cao, đó là:

- Thứ nhất, hệ số ICOR tăng một phần là vì nước ta đang trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần phải đầu tư nhiều vào các công trình xây dựng cơ bản, xây dựng cơ sở hạ tầng, là những dự án đòi hỏi số vốn đầu

tư cao nhưng lại chậm thu hồi vốn, nhất là các công trình lớn và nhiều năm nữa mới đi vào hoạt động.

- Thứ hai, sự bất hợp lý trong cơ cấu vốn đầu tư, cụ thể chúng ta quá chú trọng vào những ngành công nghiệp được xếp vào nhóm có sức cạnh tranh thấp, thu hồi vốn chậm (mía, đường, sắt, thép, phân bón, giấy…); đầu tư vào các dự án cần nhiều vốn nhưng sử dụng ít lao động; đầu tư dàn trải.

- Thứ ba, hiệu quả vốn đầu tư của khu vực nhà nước còn rất thấp. Mặc dù vốn đầu tư của khu vực nhà nước chiếm hơn 56%, nhưng hiệu quả đầu tư ở khu vực này rất thấp.

- Thứ tư, công tác giám sát đầu tư còn hạn chế. Hầu hết các khâu từ quy hoạch, thiết kế, dự toán, đấu thầu, thi công đến giám sát thi công đều chưa tốt dẫn đến không bảo đảm chất lượng công trình. Đồng thời, làm gia tăng thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn ODA. Vấn đề tham nhũng cũng là một trong những vấn đề gay gắt hiện nay làm giảm hiệu quả đầu tư của nền kinh tế.

Hệ số ICOR tăng nhanh là một vấn đề đáng báo động đối với tình hình chất lượng đầu tư ở nước ta. Các nhà kinh tế cho rằng, hệ số ICOR của nước ta hiện nay đã vượt qua ngưỡng an toàn. Trong khi chỉ số ICOR của các nước trong khu vực Đông Nam Á như Singapo, Malaixia, Thái Lan… chỉ dao động trong khoảng 2,5 đến 3,5. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, nếu so sánh với các nước ở giai đoạn tương đồng thì chỉ số ICOR của Việt Nam so với Trung Quốc cao hơn khoảng 1,5 lần, với Thái Lan là 1,35 lần.

- Năng suất lao động xã hội: một trong những nguyên nhân giải thích tại sao tỷ trọng cũng như tốc độ tăng TFP của nước ta lại thấp như vậy xuất phát từ vấn đề năng suất lao động xã hội. Năng suất lao động của nước ta hiện đang kém từ 2 đến 15 lần so với các nước trong khu vực ASEAN. Năm 2004, năng suất lao động của Việt Nam mới đạt 1.260 USD, thấp xa so với các mức năng suất 4.514,1 USD của Thái Lan, 11.276,2 USD của Malaixia, 29.057,6 USD của Hàn Quốc. Hơn nữa, năng suất lao động của nước ta tăng rất chậm, chỉ khoảng 4 - 5%/năm. Theo báo cáo năm 2004 của ADB (Ngân hàng phát triển châu Á) đã so sánh năng

suất lao động của Việt Nam với các nước Đông Nam Á, nếu năng suất lao động của Việt Nam là một thì năng suất lao động của Inđônêxia là 1,24, năng suất của Philipin là 2,68. Như vậy, rò ràng đóng góp của năng suất của lao động trong thời gian vừa qua không tăng lên nhiều, mà với các nước khu vực chúng ta lại càng bị cách xa thêm nữa.

Năng suất lao động xã hội của nước ta ở mức thấp như vậy là do các nguyên nhân chủ yếu sau:

Thứ nhất, nguyên nhân xuất phát từ cơ cấu lao động theo ngành kinh tế của Việt Nam hiện nay vẫn tập trung chủ yếu vào nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản (56,8%), còn nhóm ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng thấp (25,3%) và nhóm ngành công nghiệp - xây dựng còn chiếm tỷ trọng thấp hơn nữa (17,9%), các tỷ lệ này gần như ngược với các tỷ lệ tương ứng của các nước trong khu vực. Trong khi đó, năng suất lao động của nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản chỉ đạt rất thấp (450 USD, riêng ngành nông, lâm nghiệp đạt chưa được 400 USD), thấp xa so với năng suất lao động của nhóm ngành dịch vụ (1.860 USD) và còn thấp hơn nữa so với năng suất lao động của nhóm ngành công nghiệp - xây dựng (2.853 USD). Tính theo tỷ lệ năng suất lao động trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp chỉ chiếm bằng 12,3% năng suất lao động của ngành công nghiệp và bằng 18% năng suất lao động ở khu vực dịch vụ.

Thứ hai, chất lượng lao động của nước ta còn rất yếu kém, xếp vào loại thấp

. Số lao động ở khu vực nông thôn chiếm chủ yếu trong tổng số lao động (trên dưới 75%, tương ứng khoảng 30 triệu người), tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo là rất thấp. Theo kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp do Tổng cục Thống kê công bố đầu năm 2004, cả nước có 93% số lao động nông thôn chưa qua đào tạo, 0,8% có trình độ cao đẳng, 0,7% ở trình độ đại học và tương đương. Ngoài ra, chỉ có 2,3% lao động được đào tạo tay nghề theo trình độ sơ cấp hoặc công nhân kỹ thuật, 2,4% có trình độ trung cấp kỹ thuật, năm 2006 con số tương ứng là 91,84% chưa qua đào tạo; 1,14% trình độ cao đẳng, 1,08% trình độ đại học 2,87% trình độ sơ cấp học công nhân kỹ thuật; 2,97% trình độ trung cấp kỹ thuật. Trong những năm gần đây, trình độ học vấn của lao động cả nước nói chung và nông

Xem tất cả 144 trang.

Ngày đăng: 24/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí