khủng hoảng kinh tế, tài chính ….
Với đặc điểm của các DN và tín dụng ngân hàng đối với các DN, nên quan hệ tín dụng giữa DNNVV với các ngân hàng thương mại tiềm ẩn các rủi ro sau đây:
Tình trạng thông tin bất cân xứng (hầu hết các thông tin khách hàng cung cấp cho ngân hàng thường rất khó có bằng chứng chứng minh, hoặc kiểm chứng) làm cho ngân hàng không nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro của DNNVV một cách toàn diện và đầy đủ, do đó các ngân hàng dễ bị mất vốn khi quyết định cho vay đối với Khách hàng có tình hình hoạt động kinh doanh kém.
Các nhỏ thường kinh doanh dựa vào mối quan hệ quen biết và manh mún nên ngân hàng khó phát hiện được các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khi đã giải ngân.
Khả năng tài chính của các DNNVV bị hạn chế, cụ thể là vốn tự có thấp do đó khi gặp khó khăn thì dễ bị mất tính thanh khoản, dẫn đến việc thu hồi nợ vay của ngân hàng sẽ gặp khó khăn.
Việc sử dụng vốn sai mục đích của các DNNVV cũng làm nảy sinh các rủi ro mất vốn của ngân hàng. Các DNNVV thường sử dụng vốn vay cho mục đích cá nhân và gia đình.
Các DNNVV kinh doanh thường phụ thuộc vào một số khách hàng lớn, khi những khách hàng này gặp khó khăn thì DNNVV cũng sẽ khó khăn theo, từ đó gây rủi ro cho ngân hàng.
Khả năng quản lý tài chính yếu kém của các DNNVV cũng làm nảy sinh các rủi ro cho ngân hàng trong việc thu nợ vay đúng hạn.
Có thể bạn quan tâm!
- Mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp và Cá nhân tại Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt, Chi nhánh Quảng Ninh - 1
- Mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp và Cá nhân tại Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt, Chi nhánh Quảng Ninh - 2
- Một Số Hình Thức Cho Vay Chủ Yếu Trong Nền Kinh Tế
- Mở Rộng Cho Vay Đối Với Dn Và Cn Của Ngân Hàng Thương Mại
- Tình Hình Hoạt Động Kinh Doanh Của Lpb Chi Nhánh Quảng Ninh Trong Những Năm Qua.
- Báo Cáo Kết Quả Kinh Doanh Của Lpb Quảng Ninh Giai Đoạn 2016 – 2019
Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.
1.3.2 Đặc điểm cho vay khách hàng cá nhân
1.3.2.1 Đối tượng cho vay:
Với đặc điểm đối tượng vay vốn là các cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác có nhu cầu vốn phục vụ mục đích tiêu dùng, đầu tư hay phục vụ hoạt động sản
xuất kinh doanh của cá nhân, hộ gia đình đó. Khác với doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế, khách hàng cá nhân thường có số lượng rất lớn, khách hàng vay thường đa dạng về đặc điểm ngành nghề, thu nhập, địa lý, mục đích vay, nguồn trả nợ ... Vì vậy, nhu cầu vay vốn rất da dạng song không thường xuyên và chịu ảnh hưởng nhiều của môi trường kinh tế, văn hóa – xã hội. Do đó, ở mỗi khu vực khác nhau, nhu cầu vay vốn của các khách hàng cá nhân cũng rất khác nhau.
1.3.2.2 Quy mô và số lượng các khoản vay
Thông thường thì các khoản cho vay khách hàng cá nhân có quy mô vốn thường nhỏ hơn cho vay đối với khách hàng doanh nghiêp, tổ chức kinh tế. Tuy nhiên đối với các NHTM hoạt động theo định hướng là Ngân hàng bán lẻ thường có số lượng các khoản vay khách hàng cá nhân rất lớn. Do đó, tổng quy mô các khoản vay khách hàng cá nhân thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ của các ngân hàng.
1.3.2.3 Thời hạn vay
Thời hạn khoản vay phụ thuộc vào từng Ngân hàng, từng phân khúc khách hàng có những ngân hàng thì khoản vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn, khoản vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ và ngược lại.
1.3.2.4 Chi phí cho vay
Các khoản vay cá nhân thường không có điều kiện để khai thác lợi thế tiết kiệm chi phí do có quy mô nhỏ, số lượng các khoản vay lại rất lớn nên các ngân hàng thường bỏ ra nhiều chi phí cả về nhân lực và công cụ để phát triển khách hàng, thẩm định, xét duyệt và quản lý khoản vay. Vì vậy, chi phí tính trên mỗi đồng cho vay thường lớn hơn các khoản cho vay KHDN.
1.3.2.5 Lãi suất cho vay
Lãi suất cho vay của các khoản vay khách hàng cá nhân thường cao hơn các khoản vay cho vay khách hàng DN. Nguyên nhân bởi vì chi phí cho vay KHCN tính trên mỗi đơn vị đồng vốn cho vay là lớn, kém nhạy bén với lãi suất, lãi suất cho vay KHCN thường cao hơn lãi suất cho vay KHDN từ 1,2 đến 1,5 lần
1.3.2.6 Rủi ro tín dụng
Các khoản vay KHCN bao giờ cũng tiềm ẩn rủi ro tín dụng cao, đối tượng cho vay là các cá nhân, hộ gia đình có tình hình tài chính dễ thay đổi tùy theo tình trạng sức khỏe và công việc, trình độ quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh còn yếu kém,thiếu kinh nghiệp, trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu do đó khả năng cạnh tranh trên thị trường kém. Ngân hàng thường phải đối mặt với những rủi ro khi người vay thất nghiệp hoặc phá sản. Mặt khác việc thẩm định và quyết định cho vay khách hàng cá nhân thường không đầy đủ về thông tin cũng là một trong những lý do dẫn tới tình trạng rủi ro tín dụng đối với các khoản vay KHCN.
1.4. Vai trò cho vay khách hàng DN, khách hàng cá nhân
1.4.1 Vai trò cho vay khách hàng DN
Mô hình DN đặc biệt đối với các DNNVV là một mô hình phù hợp với nền kinh tế hàng hoá, cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng và nguồn lực trong nền kinh tế gồm vốn – lao động – tài nguyên và công nghệ. Do đó, sự phát triển của các DN trong đó có DNNVV có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Trong cơ chế cạnh tranh hiện nay, khi mà tất cả các loại hình doanh nghiệp đang phát huy hiệu quả kinh doanh ở mức cao nhất thì các DNNVV lại càng phải nỗ lực hơn để đáp ứng những yêu cầu mới, sản phẩm cần tốt hơn, đa dạng hơn, thiết bị cần hiện đại hơn, máy móc, công nghệ cần tiên tiến hơn và tất yếu vốn phải cần nhiều hơn. Như vậy, suy cho cùng thì vốn vẫn là điều kiện tiên quyết, quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, các DNNVV thường lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính và luôn thiếu vốn là vấn đề nổi cộm nhất. Với khả năng tập trung được các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, hoạt động cho vay của ngân hàng chính là cầu nối góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế nói chung, nên hoạt động cho vay của ngân hàng là kênh cung cấp vốn ngày càng có vai trò quan trọng hơn, cần thiết hơn đối với các DNNVV, vai trò đó được thể hiện trên một số mặt sau:
Là đòn bẩy kinh tế hỗ trợ các DNNVV phát triển, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Với hoạt động đi vay để
cho vay, ngân hàng đã tạo cơ
hội cho các chủ
DNNVV muốn mở
rộng sản xuất kinh doanh hay thực hiện một dự
án kinh
doanh có thể vay vốn để thực hiện. Tín dụng ngân hàng tác động điều tiết sự di chuyển vốn đầu tư làm bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận thúc đẩy sự phát triển
của các DNNVV, tín dụng ngân hàng luôn chuyển hướng đầu tư vào những
doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao, hạn chế hoặc không đầu tư vào những DNNVV có tỷ suất lợi nhuận thấp. Qua đó tín dụng ngân hàng làm thay đổi quan hệ về cung – cầu hàng hoá và thay đổi cơ cấu ngành nghề kinh tế.
Góp phần tăng nguồn vốn, nâng cao khả DNNVV.
năng cạnh tranh của các
Một trong những quy luật khách quan của cơ chế thị trường là cạnh tranh và quy luật này ngày càng quan trọng, quyết định rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng. Tuy nhiên do những đặc điểm, tính chất của mình, DNNVV gặp không ít những khó khăn trong việc phát
triển, tạo thị phần, tạo niềm tin, tạo hình
ảnh trong khi vị
thế
của các doanh
nghiệp lớn trong và ngoài nước đã ổn định và có chỗ đứng trên thị trường, vì vậy xu hướng hiện nay của các DNNVV là tìm cách liên doanh, liên kết nhằm bổ sung và hoàn thiện những hạn chế của mình, đặc biệt là hạn chế về vốn.
Mặc dù vậy, để đầu tư phát triển lớn, liên doanh, liên kết thôi chưa đủ vì vốn tự có thường hạn hẹp, khả năng tích tụ thấp cần mất nhiều năm mới có thể có được đủ vốn nhưng khi đó cơ hội làm ăn có thể không còn nữa. Do đó các DNNVV thường xuyên tìm cách huy động vốn từ mọi thành phần kinh tế, trong đó chủ yếu là nguồn tín dụng ngân hàng. Khi vốn được giải ngân, sức mạnh tài chính của DNNVV tăng lên thì các DNNVV cũng có cơ hội thực hiện được mục đích của mình, mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, chiếm lĩnh thị trường, tạo thế cạnh tranh.
Tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận các nguồn vốn từ nước ngoài.
Bên cạnh việc kích thích các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nước thực
hiện tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn tiền tệ, tín dụng ngân hàng còn thu hút nguồn vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức như trực tiếp vay bằng tiền, bảo lãnh cho các DNNVV mua thiết bị trả chậm, sử dụng hạn mức L/C…. Như vậy quan hệ quốc tế của các DNNVV đã được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV, đặc biệt là các DNNVV hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Thông qua nguồn vốn vay này, DNNVV xác lập một cơ cấu vốn tối ưu đảm bảo kết hợp hiệu quả giữa nguồn đi vay với nguồn vốn tự có để sản xuất những sản phẩm có giá thành thấp hơn, nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng hàng hoá và được thị trường chấp nhận. Có như vậy thì DNNVV mới đạt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của mình.
Góp phần tích cực hình thành đồng bộ hệ thống thị trường các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” cho các DNNVV.
Các DNNVV có vốn lưu động thấp so với nhu cầu vốn cần thiết của doanh nghiệp. Nguồn vốn để mua vật tư hàng hoá dự trữ cho sản xuất kinh doanh (kể
cả trong nước và ngoài nước) chủ yếu được bù đắp bằng vốn tín dụng ngân
hàng. Mặt khác tín dụng ngân hàng cũng tác động mạnh mẽ vào việc tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp thông qua việc mở rộng tín dụng tiêu dùng; cho vay hoặc bảo lãnh để các tổ chức kinh tế, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực lưu thông mua bán hàng hoá. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ tập trung cho vay những đối tượng hàng hoá có chất lượng cao, có sức cạnh tranh tốt, qua đó thúc đẩy việc xác lập cơ cấu kinh tế mới theo hướng hiện đại.
Góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DN.
Để đảm bảo trả
nợ Ngân hàng, và quyền lợi của người sở
hữu
doanh
nghiệp bắt buộc hoạt động kinh doanh của DN phải sinh lời. Thêm vào đó, khi cho vay ngân hàng thường xuyên kiểm tra tình hình kinh doanh cũng như tình hình tài chính của DN và họ chỉ cho vay những DN có kết quả kinh doanh tốt, tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, đảm bảo có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Yếu tố này thúc đẩy các DN cần quan tâm hơn nữa đến hiệu quả sử dụng vốn,
giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng vòng quay vốn tạo điều kiện nâng cao khả năng tối đa hoá lợi nhuận của các DN. Việc quản lý vốn thông qua quá trình hạch toán kinh tế góp phần củng cố chế độ hạch toán kinh tế trong các DN thêm vững chắc. Trước, trong và sau khi giải ngân, ngân hàng luôn quan tâm đến hoạt động kinh doanh của DN để có thể góp ý, tham gia trên những lĩnh vực mà ngân hàng biết, cũng bởi ngân hàng có quan hệ với rất nhiều các chủ thể kinh tế khác, vậy nên thông tin mà họ nắm bắt được cũng rất nhanh, chính xác giúp DN chủ
động trước thời cơ
cũng như
thách thức, từ
đó tìm ra các biện pháp tốt nhất
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Góp phần nâng cao trình độ công nghệ khoa học, chất lượng và mẫu mã sản phẩm.
Bên cạnh những doanh nghiệp lớn các DNNVV với đặc điểm nguồn vốn thấp, các DNNVV khó đầu tư được công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại để cải thiện chất lượng và mẫu mã sản phẩm. Vì vậy, nguồn vốn huy động từ ngân hàng có thể coi là nguồn quan trọng để DNNVV thực hiện được nhu cầu này.
Góp phần nâng cao trình độ trình độ tay nghề người lao động.
quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp và
Việc nâng cao trình độ quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp và trình độ tay nghề người lao động sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của doanh nghiệp và tăng năng suất lao động. Mặc dù hiểu được điều này nhưng các DNNVV đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ không muốn chi tiền để đào tạo, tất cả nguồn vốn doanh nghiệp đều tập trung cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Do vậy, nếu doanh nghiệp có thể tiếp cận được nguồn tín dụng từ ngân hàng sẽ làm tăng nguồn vốn hoạt động cho doanh nghiệp, từ đó doanh nghiệp mạnh dạn hơn trong công tác đào tạo của mình. Qua một vài khía cạnh nêu trên, ta thấy được vai trò to lớn của tín dụng ngân hàng đối với các DNNVV, và sẽ là quan trọng hơn đối với các DNNVV hoạt động ở vùng nông thôn, những địa phương còn gặp nhiều khó khăn.
1.4.2 Vai trò cho vay khách hàng cá nhân
Hiện nay, sự cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt, nhất là tại các đô thịnơi tập trung số lượng lớn các khách hàng có tiềm lực tài chính và mật độ ngân hàng dày đặc. Dưới áp lực cạnh tranh về cung cấp dịch vụ ngân hàng trong mấy năm qua và sự phát triển nhanh chóng của Công nghệ thông tin, nhiều ngân hàng đã xác định cho mính chiến lược phát triển kinh doanh theo định hướng ngân hàng bán lẻ.
Hoạt động cho vay KHCN nói riêng và nghiệp vụ
ngân hàng bán lẻ
nói
chung sẽ góp phần làm tăng thị
phần của các NHTM, đưa hình
ảnh của ngân
hàng đến với đông đảo đối tượng khách hàng, cung cấp cho khách hàng danh mục sản phẩm đa dạng, phục vụ nhu cầu tối đa mọi khách hàng.
Việt Nam có môi trường chính trị ổn định, hệ thông pháp luật ngày càng được hoàn thiên, môi trường kinh tế tăng trưởng liên tục và ổn định qua nhiều năm. Sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội và thu nhập gia tăng cũng dẫn đến những thói quen tiêu dùng của người dân. Chất lượng cuộc sống của người dân không ngừng được cải thiện, người tiêu dùng khó tính hơn và nhu cầu cho cuộc sống cao hơn, đặc biệt là nhu cầu về nhà ở, phương tiện đi lại tiêu dùng các nhân và nhiều mục đích khác. Do đó hoạt động cho vay KHCN sẽ còn tiếp tục tăng trưởng nhanh trọng những năm tới.
Đối với NHTM việc mở rộng cho vay khách hàng cá nhân giúp ngân hàng mở rộng mối quan hệ với đa dạng khách hàng, đa dạng hoạt động kinh doanh, phân tán rủi ro và tăng lợi nhuận.
Đối với khách hàng, hoạt động cho vay KHCN của NHTM giải quyết tốt những nhu cầu cấp bách về vốn trong kinh doanh và nâng cao đời sống khách hàng, giúp họ được hưởng một mức sống cao hơn dù chưa đủ khả năng chi trả trong hiện tại.
Đối với nền kinh tế, cho vay KHCN có tác dụng tích cực trong việc kích cầu tiêu dùng, từ đó tạo nên hiệu ứng kích thích sản phẩm, thúc đẩy sản xuất
phát triển, góp phần thúc đẩy kinh tế, đảm bảo an ninh xã hội.
Vì vậy, việc mở rộng hoạt động cho vay của Ngân hàng đối với DN và CN là thực sự cần thiết để hoàn thiện một nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế đang phát triển như nước ta hiện nay.
1.5 Các loại hình cho vay Khách hàng doanh nghiệp, khách hàng cá nhân
1.5.1 Các loại hình cho vay doanh nghiệp
Việc cho vay của Ngân hàng đối với Doanh nghiệp được thực hiện chủ yếu qua các hình thức sau:
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Là số dư nợ cho vay cao nhất mà ngân hàng cam kết sẽ thực hiện cho một khách hàng, có hiệu lực trong một thời gian nhất định, thường là 1 năm. Hạn mức tín dụng được xác định trên cơ sở nhu cầu vay vốn của khách hàng và khả năng đáp ứng của ngân hàng. Khi đã được ngân hàng ấn định hạn mức tín dụng thì khách hàng được quyền vay vốn với số dư trong phạm vi của hạn mức tín dụng đó.
Cho vay từng lần: Áp dụng cho các đơn vị tổ chức kinh tế có nhu cầu vay vốn không thường xuyên có tính chất đột xuất, không được ấn định hạn mức tín dụng. Cho vay từng lần có đặc điểm sau: Vốn tín dụng chỉ tham gia vào một giai đoạn hay một quy trình nhất định trong chu kỳ sản xuất kinh doanh, chu kỳ luân chuyển vốn của đơn vị. Về phía ngân hàng việc cho vay và thu nợ được xử lý theo từng món vay.
Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh.
Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là một kỹ thuật cấp tín dụng cho khách hàng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng chi vượt số dư có trên tài khoản thanh toán của khách hàng để thực hiện các giao dịch thanh toán kịp thời cho nhu cầu sản xuất kinh doanh.