Hoạt Động Sản Xuất Kinh Doanh Của Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam‌

tối đa hóa lợi nhuận và nâng cao hiệu quả, khả năng cạnh tranh của Tập đoàn và các đơn vị thành viên trong cơ chế thị trường.

Vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội Đồng quản trị và Ban tổng giám đốc đã phân định cụ thể và rõ ràng hơn. Từ đó, phát huy cao năng lực quản lý, hoạch định chiến lược phát triển, kiểm tra, giám sát hoạt động đối với tập đoàn của Hội đồng quản trị và nâng cao tính chủ động, sáng tạo và chịu trách nhiệm trong điều hành của ban Tổng giám đốc công ty. Bên cạnh đó, năng lực của các bộ phận tham mưu, giúp việc cũng khắc phục được hạn chế trước yêu cầu tham mưu, giúp việc cho Hội đồng quản trị và ban Tổng giám đốc, những bộ phận nghiên cứu có tính chiến lược, hỗ trợ kỹ thuật cần thiết đã hình thành. Tư duy trong quản lý, điều hành đã thay đổi, lề lối hành chính, bao cấp trong quản lý từng bước được khắc phục.

Cơ chế tài chính mới tạo điều kiện cho tập đoàn phát triển mạnh tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của ngành dầu khí. Do có quy định 50% lợi nhuận sau thuế từ Xí nghiệp liên doanh dầu khí Việt-Xô được để lại để sử dụng vào mục đích đầu tư phát triển của Tập đoàn (cùng với toàn bộ số tiền cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng công ty trước đây được để lại Tập đoàn do chính sách cổ phần hóa của nhà nước) nên đã khắc phục được những yêu cầu do tính chất đặc thù của hoạt động khai thác dầu mỏ có lợi nhuận cao nhưng cũng đòi hỏi đầu tư lớn và chịu rủi ro không nhỏ, đặc biệt trong khâu tìm kiếm, thăm dò dầu khí. Trước đây khi Tổng công ty có nhu cầu đầu tư hầu hết phải qua các thủ tục phê duyệt và cấp phát từ Ngân sách nhà nước theo cơ chết phức tạp. Do đó không đảm bảo tiến độ đóng góp vốn vào các dự án, cũng như không chủ động được nguồn vốn cho công tác thăm dò khai thác tiếp theo. Cơ chế tài chính mới cũng tạo điều kiện dễ dàng hơn cho việc huy động vốn đề thực hiện các hoạt động kinh doanh đa ngành.

Là một tập đoàn kinh tế quan trọng của đất nước, có nhiều dự án trọng điểm cấp nhà nước, Tập đoàn đã áp dụng nhiều hơn các cơ chế đặc cách trong

công tác đầu tư xây dựng, đấu thầu, xuất nhập khẩu… dẫn đến việc triển khai các dự án đỡ mất nhiều thời gian hơn trong việc phải đi xin, trình phê duyệt.

5.3. Khó khăn vướng mắc trong quá trình chuyển đổi

Hiện nay công ty mẹ đang hoạt động theo mô hình là công ty dầu khí quốc gia, thay mặt nhà nước quản lý các hoạt động dầu khí, đầu tư tài chính vào các công ty thành viên. Các hoạt động sản xuất trực tiếp là giao cho các đơn vị thành viên thực hiện. Tuy nhiên về lâu dài thì công ty mẹ cần có hoạt động sản xuất kinh doanh trực tiếp trong lĩnh vực chủ chốt của ngành. Đối với các công ty con cũng vậy. Các công ty con được tổ chức dưới dạng Công ty mẹ - công ty con cũng cần có hoạt động sản xuất trực tiếp. Trong giai đoạn công ty con mới thành lập chưa có doanh thu thì Công ty mẹ sẽ gặp khó khăn nhất định. Vì vậy cần xem xét việc chuyển đổi để công ty mẹ nắm giữ một phần các hoạt động sản xuất kinh doanh trực tiếp.

Thứ hai, các doanh nghiệp thành viên là độc lập hoạt động theo luật và lựa chọn cho mình mô hình kinh doanh đa ngành. Việc các đơn vị thành viên kinh doanh đa ngành sẽ không tránh khỏi sự trùng lặp giữa các đơn vị, dẫn đến sự cạnh tranh lẫn nhau trong cùng một tập đoàn, lãng phí nguồn vốn. Điều này khiến Công ty mẹ phải dùng quyền lực để chi phối, sắp xếp lại các doanh nghiệp. Với việc thí điểm tăng cường nhân sự cho Hội đồng quản trị Tập đoàn DKVN bằng việc cử hai lãnh đạo Bộ Tài chính và Bộ Công Thương vào HĐQT Tập đoàn) để có thể quyết định được nhanh chóng và hầu hết các vấn đề lớn đã được HĐQT Tập đoàn Dầu khí thông qua trình lên Thủ tướng Chính phủ quyết định thì phải được xem là đã có ý kiến của 2 Bộ (Tài chính và Công Thương). Nhưng trong thực tế, quy trình lại vẫn phải thực hiện như các tập đoàn khác (gửi xin ý kiến các bộ, chờ ý kiến, VPCP tổng hợp trình thủ tướng…) dẫn đến mất

nhiều cơ hội đầu tư cho các dự án ở nước ngoài (mua mỏ, tài sản…).

Đối với việc bố trí các nhân sự chủ chốt ở các đơn vị thành viên của Tập đoàn còn ở giai đoạn thí điểm, đó là việc lựa chọn mô hình Chủ tịch chuyên

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.

trách hay kiêm nhiệm, Chủ tịch có kiêm Tổng giám đốc không, các thành viên kiểm soát chuyên trách hay kiêm nhiệm, tiền lương và phụ cấp do các công ty thành viên chi trả hay công ty mẹ chi trả, cơ chế hạch toán các khoản này như thế nào…

Mặc dù cơ chế tài chính của Tập đoàn Dầu khi Việt Nam được quy định bởi Nghị định số 142 của Chính phủ đã có nhiều tiến bộ so với trước đây, nhưng vẫn còn nhiều bất cập trong triển khai thực hiện. Sự bất cập lớn nhất trong cơ chế là Tập đoàn Dầu khí VN được quy định là một doanh nghiệp nhưng cơ chế tài chính chưa đảm bảo để Tập đoàn trở thành một doanh nghiệp thực sự. Đa số các công ty con trong Tập đoàn có quy mô lớn cũng được tổ chức và hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, nên việc lập báo cáo tài chính hợp nhất toàn Tập đoàn gặp rất nhiều khó khăn và thường bị chậm so với yêu cầu. Với cơ chế tài chính hiện nay, nguồn quỹ khen thưởng, phúc lợi rất hạn chế vì không có quỹ tập trung toàn Tập đoàn nên không có nguồn động viên, khen thưởng kịp thời các đơn vị triển khai thực hiện tốt các dự án trọng điểm và hỗ trợ các đơn vị khó khăn, do vậy vai trò chỉ đạo của Tập đoàn chưa được phát huy.

Mô hình tập đoàn kinh tế - hoạt động của tập đoàn dầu khí Việt Nam giai đoạn 2006 - 2008 và xu hướng phát triển - 7

Các đơn vị thành viên của Tập đoàn là các công ty con, công ty liên kết và các đơn vị nghiên cứu khoa học và đào tạo. Nhưng các quy định về công ty liên kết chưa được rõ ràng. Bất kì một đơn vị nào có vốn đầu tư của công ty mẹ dù ít hay nhiều thì cũng đều được quy định là đơn vị thành viên liên kết của Tập đoàn. Ngoài ra còn có đơn vị thành viên liên kết tự nguyện là các công ty không có vốn đầu tư của tập đoàn. Đây là bất cập của mô hình này, vì số đơn vị thành viên của một tập đoàn kinh tế hoạt động đa ngành sẽ quá nhiều. Điều này dẫn đến là một công ty liên kết có thể sử dụng logo, thương hiệu của công ty mẹ tùy tiện để lợi dụng vào mục đích kinh doanh của mình.

III. Hoạt động sản xuất kinh doanh của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam‌

1. Tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm 2006 – 2010

1.1. Kế hoạch đề ra

Tìm kiếm thăm dò dầu khí:

- Đẩy mạnh việc tìm kiếm thăm dò, gia tăng trữ lượng xác minh;

- Ưu tiên phát triển những vùng nước sâu, xa bờ, những vùng chồng lấn, tranh chấp, nhạy cảm “chính trị”, tích cực triển khai đầu tư tiềm kiếm thăm dò dầu khí ra nước ngoài. Phấn đấu gia tăng trữ lượng dầu khí trong nước đạt 30- 35triệu tấn quy dầu/năm.

Khai thác dầu khí: Khai thác và sử dụng hợp lý hiệu quả, tiết kiệm nguồn tài nguyên dầu khí trong nước, tích cực mở rộng các hoạt động dầu khí ở nước ngoài và sớm đưa ra các phát hiện dầu khí mới vào khai thác. Phấn đấu khai thác 25-30 triệu tấn quy dầu/năm. Trong đó khai thác dầu thô trong nước giữ ổn định ở mức 18 – 19 triệu tấn/năm, ở nước ngoài từ 0,1-0,7 triệu tấn/năm và khái thác khí 7-11 tỉ m3/năm.

Công nghiệp khí: Phát triển thị trường tiêu thụ khí trong nước, đảm bảo sử dụng hết sản lượng khí khai thác được. Triển khai đầu tư các đường ống dẫn khí mới và thúc đẩy tiến độ xây dựng các dự án đường ống dẫn khí đã được phê duyệt, khuyến khích các nhà thầu hợp tác đầu tư xây dựng các đường ống dẫn khí từ mỏ nối vào mạng đường ống dẫn khí quốc gia để phát triển các mỏ khí và tận thu khí đồng hành.

Công nghiệp chế biến dầu khí: Tích cực thu hút nguồn vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là từ đầu tư nước ngoài. Kết hợp có hiệu quả giữa các công trình lọc, hóa dầu, chế biến khí để tạo ra được các sản phẩm cần thiết phục vụ nhu cầu của thị trường trong nước và làm nguyên liệu cho các ngành công nghiệp khác.

Phát triển dịch vụ dầu khí: Thu hút tối đa các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ để tăng nhanh tỉ trọng doanh thu dịch vụ trong tổng doanh thu

của cả ngành. Phấn đấu đếnn năm 2010, doanh thu dịch vụ kĩ thuật dầu khí đạt 20-25% tổng doanh thu toàn Tập đoàn.

Phát triển khoa học công nghệ: Tăng cường phát triển tiềm lực khoa học- công nghệ. Xây dựng lực lượng cán bộ, công nhân dầu khí mạnh cả về chất và lượng để có thể tự điều hành được các hoạt động dầu khí cả trong nước và nước ngoài.

Đào tạo nguồn lực: Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học công nghệ và công nhân kĩ thuật nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển lâu dài của ngành, kể cả nhu cầu xuất khẩu lao động về dầu khí.

1.2. Tình hình triển khai kế hoạch 5 năm 2006-2010

1.2.1. Thuận lợi và khó khăn

* Thuận lợi:

Việt Nam có nguồn tài nguyên khí với sản lượng khai thác hàng năm vào khoảng 17 đến 20 triệu tấn quy đổi. Việt Nam là quốc gia xuất khẩu dầu thô lớn thứ 3 trong khu vực. Thêm vào đó, tập đoàn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, sự hỗ trợ tích cực của Bộ, Ban, Ngành, các tổ chức đoàn thể Trung ương và địa phương.

Tình hình chính trị - xã hội ổn định, tạo điều kiện cho PVN cơ sở nền tảng tốt tập trung vào các hoạt động sản xuất kinh doanh.

Trình độ nguồn nhân lực của PVN: Tuy dầu khí là ngành nghề mới phát triển ở Việt Nam nhưng Việt Nam có đội ngũ người lao động đào tạo cơ bản, có kinh nghiệm nhất định trong lĩnh vực dầu khí. Đội ngũ lao động Việt Nam dần thay thế những chuyên gia nước ngoài. Nhân lực của PVN còn có khả năng tự triển khai các hoạt động dầu khí ở nước ngoài.

Quan hệ quốc tế thuận lợi, hòa nhập với chủ chương mở cửa, hòa bình, hợp tác của Đảng Chính phủ nhằm xây dựng quan hệ tốt với mọi quốc gia để phát triển kinh tế. Sau hơn 30 năm xây dựng và trưởng thành, ngành dầu khí

Việt Nam đã xây dựng được mối quan hệ quốc tế với nhiều đối tác nước ngoài. Tập đoàn có uy tín và khẳng định được vị thế của mình trong nước và quốc tế.

Cơ sở vật chất: PVN được thành lập 33 năm nhưng những hoạt động dầu khí đã được tiến hành từ năm 1959. Cho đến nay, dầu khí đã trở thành ngành kinh tế, kỹ thuật phát triển toàn diện tất cả các khâu của hoạt động dầu khí ( từ thượng nguồn – trung nguồn – hạ nguồn). Hàng năm có đóng góp lớn vào ngân sách nhà nước. So với các tập đoàn khác trong nước thì PVN là một tập đoàn có tiềm lực tài chính mạnh, được tin tưởng và giao nhiều trọng trách.

Nhân công Việt Nam rẻ: Chi phí thuê nhân công ở Việt Nam nhìn chung là rẻ hơn so với chi phí thuê nhân công ở trên thế giới và trong khu vực, các dịch vụ dầu khí ở Việt Nam cũng có giá rẻ hơn so với dịch vụ dầu khí ở trong khu vực. Điều đó góp phần nâng cao lợi thế cạnh tranh cho các sản phẩm của PVN.

* Khó khăn

Điều kiện triển khai công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí ngày càng khó khăn và đòi hỏi chi phí cao. Vị trí các mỏ dầu ít thuận lợi, chủ yếu các mỏ dầu lớn của Việt Nam nằm ở khu vực thềm lục địa. Vì vậy mà chi phí khai thác trên một đơn vị sản phẩm sẽ cao hơn.

Công nghệ còn hạn chế. Việt Nam là nước đang phát triển nên công nghệ còn phụ thuộc nhiều vào nước ngoài. Tiền vốn đầu tư vào Công nghệ đòi hỏi nhiều, nên gây khó khăn cho việc đưa công nghệ vào hoạt động khai thác, tìm kiếm. Mất thời gian dài để có thể tiếp cần được công nghệ tiên tiến, hiện đại, điều này ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh. Việt Nam có trữ lượng lớn dầu mỏ nằm trong thềm lục địa nhưng hiện tại chưa đủ công nghệ - kỹ thuật để có thể tiến hành hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí ở đó.

Trong Tập đoàn còn tồn tại tư tưởng ỷ lại. Tập đoàn dầu khí Quốc gia Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước. Được sống trong chế độ bao cấp của Nhà nước trong một thời gian dài, mặc dù có nhiều thay đổi để thích ứng với cơ chế thị trường nhưng vẫn tồn tại tư tưởng ỷ lại sự bao cấp của nhà nước.

Trong thời gian vừa qua, đặc biệt có sự can thiệp của phía Trung Quốc ở Biển Đông làm ảnh hưởng quá trình triển khai công tác. Thêm vào đó là khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong năm qua làm giá cả của nhiều loại thiết bị vật tư, vật liệu chủ yếu, dịch vụ liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư có xu hướng tăng gây khó khăn trong việc thực hiện.

1.2.2. Kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu 2006-2008

1.2.2.1. Về tìm kiếm thăm dò dầu khí

Công tác khảo sát, điều tra cơ bản và tìm kiếm thăm dò dầu khí được triển khai tích cực ở cả trong và ngoài nước. Kết quả đạt được trong giai đoạn này là: Thu nổ được 65.910 Km địa chấn 2D; khoan 85 giếng khoan tìm kiếm thăm dò và thẩm lượng; Gia tăng trữ lượng đạt 114 triệu tấn quy dầu, bằng 65% kế hoạch 5 năm là 175 triệu tấn quy dầu; có 11 phát hiện dầu khí mới; kí 33 hợp đồng dầu khí mới.

Về cơ bản, Tập đoàn đã hoàn thành vượt mức mục tiêu kế hoạch tìm kiếm thăm dò dầu khí đã đề ra, gia tăng trữ lượng dầu khí vượt 09 triệu tấn quy dầu so với kế hoạch (114 triệu tấn so với kế hoạch là 105 triệu tấn), việc kêu gọi đầu tư nước ngoài vào tìm kiếm thăm dò trong nước và triển khai tìm kiếm dự án thăm dò dầu khí ra nước ngoài của Tập đoàn đạt được kết quả cao hơn dự kiến (kí được 33 hợp đồng dầu khí so với kế hoạch là kí được 3 – 5 hợp đồng dầu khí cả trong và ngoài nước). Việc đạt kết quả trên có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ yếu là công tác kêu gọi đầu tư và mở rộng đầu tư đã được tập đoàn đặc biệt quan tâm và tích cực triển khai bên cạnh sự chỉ đạo sát sao của Đảng, sự hỗ trợ, giúp đỡ về mọi mặt của Chính phủ và các Bộ ngành; sự năng động, sáng tạo của lãnh đạo và sự nỗ lực cao của toàn thể cán bộ công nhân viên trong Tập đoàn.

Tuy nhiên việc triển khai công tác khảo sát, điều tra cơ bản và tìm kiếm thăm dò dầu khí trong nước thời gian qua còn gặp nhiều khó khăn, ngoài yếu tố thời tiết bất thường thì còn do điều kiện khai thác tìm kiếm thăm dò dầu khí

ngày càng khó khăn, đòi hỏi chi phí cao hơn so với trước. Chính sách thuế chưa hợp lý. Sự can thiệp của Trung Quốc vào khu vực “Lưỡi bò” làm ảnh hưởng tới chương trình công tác của một số nhà thầu như Vietgasprom, BP, Chevron, Idemitsu, Exxon, Mobil… Thời gian tới, Tập đoàn tiếp tục phối hợp chặt chẽ với bộ quốc phòng và các Bộ ngành, địa phương liên quan đến từng bước khắc phục những khó khăn trên để đẩy mạnh công tác khảo sát, điều tra cơ bản và tìm kiếm thăm dò dầu khí trên toàn bộ thềm lục địa Việt Nam để khẳng định trữ lượng dầu khí và chủ quyền quốc gia của Việt Nam.

1.2.2.2. Khai thác dầu khí

Các mỏ dầu khí trong nước tiếp tục được khai thác an toàn, tháng 9/2006 Việt Nam đã có tấn dầu thô đầu tiên khai thác ở nước ngoài (Malayxia). Tuy nhiên sản lượng khai thác giai đoạn 2006 – 2008 chưa đạt được mức như kế hoạch đã đề ra. Kết quả khai thác dầu khí giai đoạn 2006 – 2008 như sau: Tổng sản lượng khai thác đạt 69,82 triệu tấn quy dầu (so với kế hoạch đề ra là 75,73 triệu tấn); đưa 7 mỏ mới vào khai thác. Trong đó có 6 mỏ trong nước và 1 mỏ ở nước ngoài (Malayxia)

Tập đoàn đã không hoàn thành mục tiêu kế hoạch khai thác dầu khí đề ra cho giai đoạn 2006 – 2008, nguyên nhân là do:

Khai thác ở một số mỏ diễn biến phức tạp khó lường, thời tiết xấu diễn biến bất thường, sản lượng khai thác từ các giếng ở các mỏ mới được đưa vào khai thác không như dự kiến, việc tiêu thụ khí chưa ổn định tại khu vực Cà Mau do nhà máy điện Cà Mau 1 mới đi vào hoạt động…; diễn biến nóng của thị trường vật tư, dịch vụ dầu khí trên thế giới đã làm ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện kế hoạch sản lượng đề ra.

Tuy nhiên do giá dầu thô trong những năm qua luôn giữ ở mức cao nên chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu và nộp ngân sách nhà nước đã hoàn thành trước thời hạn 02 năm. Theo dự kiến thì đến hết năm 2008 toàn tập đoàn đạt kim

Xem tất cả 103 trang.

Ngày đăng: 05/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí